Tuesday, June 23, 2009

Entry for June 23, 2009 Tập làm văn

Bản dịch tiếng Việt ở đây.

Hy vọng một ngày nào đó, những đề bài làm văn ở VN đều hướng đến những điều gần gũi đời thường như thế này, chứ không còn là chuyện xé rào của một ít thầy cô khi muốn hướng học trò mình đến chỗ bộc bạch được những suy nghĩ riêng tư.

Ngoc-Tam Quach

Period 5-6

12/10/08.

Ordinary Outside, Extraordinary Inside

What is a hero? This question has probably popped up in everybody’s mind once in a while. When they hear of the word “hero,” most people immediately think of a person who would risk his life to save another person, or thousands. This, however, is not necessarily what a person has to do to become an admirable figure. A person has many different qualities and attributes that can make them a hero. For example, a hero can be a grandfather who taught his grandson how to fly a kite, or a mother who is there for her children when they are sick. A realistic definition of a hero is someone who leaves a great impact on your life, and that you admire. My hero is a regular, ordinary, typical teenage girl who left me an admirable impression of her by her simple words.

Truc T. Tran is my best and first friend ever, at an American school. Since I moved from Vietnam to the United States over the summer from Vietnam, in other words, I was totally new to the school. The teacher and the kids around me were kind, but I still felt like I was an outsider. At recess, I figured that no one would play with me, so it didn’t surprise me when I found myself alone under a tree. What surprised me was; when I looked up, expecting to see the blue sky instead, I saw a face a freckle-faced girl. The girl was smiling at me like she saw something she liked. I was somewhat surprised, but decided to smile back since it was the polite thing to do. When I was about to tell the strange girl that I was new and didn’t speak English, she spoke to me in Vietnamese that she saw me in class and that she was new too. My smile spread wider and it was like kindergarten all over again. We asked each other our names, where we lived in Vietnam, favorite places and other things. I found out that Truc and I were very alike, which made me more comfortable around her. From then on, I always told her my problems, opinions and almost everything about me to her like I never did to anyone else before.

When sixth grade started, we were both extremely excited to know that we would be in the same class. Truc and I move at the same pace in almost every subject except for Language Arts. Truc had problems with her grammar, which made me move at a faster pace than her. We both got good grades and like to compete with each other to improve ourselves. One day, however, I got terribly sick awfully I was absent for quite a while from school. Unfortunately, when I came back, it was near the day of a math test. I didn’t get anything that the teacher was talking about in class. I was extremely worried that I’d fail the test that I almost cried when I told Truc about it. Truc comforted me that I would do fine because she was determined to help me ace that math test. From then on, we would work on math during recess, and came to each other’s houses every once in a while. I guess it’s because we were the same age that Truc explained the problems and steps to me in a way that I’d understand. On the day of the test, I was very nervous but did the best I could to not disappoint Truc and waste all her hard work. All was paid off in the end; I got an A on the math test and got a compliment from the math teacher. I told her about how Truc helped me and the teacher said, “What would you have done without such an amazing friend?” I thanked Truc so many times that she said if I wouldn’t stop, she would duct tape my mouth. “What are friends for?” Truc smiled as she said that. That simple sentence had warmed my entire body. She was the only friend that would stick to me all the way to the end. I feel so very lucky to have a friend like Truc.

As we moved on to seventh and eight grades, we didn’t get to spend as much time with each other as much as we liked, but we worked it out. Truc would come over to my house every once in a while, and we would look for each other during lunch time. “Truc is so smart, nice, and helpful to everyone,” said Bansari, one of my new close friends in middle school. Truc has such amazing quality and characteristics that it would take an adult almost all his, or her life to develop. I have so much more to write about Truc but there wouldn’t be enough words to describe her. In the end, I just want to thank Fate to let me meet Truc, a friend and hero that gave me a new definition to the word “friend.”

Tuesday, June 9, 2009

Entry for June 09, 2009Nói với con bằng thứ tiếng nào đây?

(Cám ơn bạn Lún đã cho mượn ý tưởng và một phần nội dung :p)

Tính từ ngày người cộng đồng Việt Nam hiện diện trên miền đất này đến nay đã ba mươi mấy năm. Ba mươi mấy năm đủ cho một lớp người trưởng thành, lớn lên và sản sinh ra thêm một thế hệ nữa. Để có thể tồn tại và phát triển, mỗi người chúng ta phải đối diện với biết bao vấn đề, chất chồng biết bao tâm tư, trong đó cam go và khó khăn nhất vẫn là vấn đề bất đồng ngôn ngữ.

Trong khuôn khổ bài báo này, người viết không muốn đề cập đến vấn đề bất đồng ngôn ngữ trong giao tiếp ngoài xã hội, mà sâu xa hơn, đó là bất đồng ngôn ngữ trong gia đình, giữa cha mẹ và con cái.

Lựa chọn thứ ngôn ngữ nào đây, và dạy con thứ ngôn ngữ nào đây để con có thể vừa ra ngoài bằng chúng bằng bạn, vừa có thể hiểu được, cảm thông được tâm tư của cha mẹ, và không quên cái gốc Việt Nam của mình. Điều đơn giản đó, chúng ta đã bao giờ tự hỏi mình?

Phải thừa nhận rằng số người Việt Nam không nói được tiếng Anh, hoặc tiếng Anh chỉ dừng lại ở những câu giao tiếp thông thường là rất lớn. Cha mẹ quan tâm, hỏi thăm con bằng tiếng Việt, con nghe, hiểu, nhưng trả lời bằng tiếng Anh. Cha mẹ nghe tiếng được tiếng mất, nhưng đại khái hỏi nó học hành hôm nay ra sao, nghe nó trả lời ‘Good’ hay ‘ok’ thì cứ yên tâm là được. Khi con học cao hơn, sâu hơn, con cần khám phá cái này, tìm hiểu cái kia, không thể hỏi cha mẹ, hay tự nó biết ‘kiến thức của ba mẹ nó hạn hẹp’ thì nó cứ hỏi thầy hỏi bạn, hay mày mò trên internet. Đến lúc đó, cha mẹ và con cái hình như đã là hai thế giới khác nhau, bởi không chia sẻ được những suy tư.

Cũng có những bậc cha mẹ cố thu xếp thời gian đến với những lớp ESL (English as a Second Language) để mong có thể hiểu con cái mình nói gì. Nhưng sự tiến bộ đó không là bao khi trở về nhà tiếng Việt vẫn là ngôn ngữ chính. Đi chợ, đi làm, quanh quẩn trong cái khu đông đúc người Việt thì cần gì phải trau dồi tiếng Anh.

Với những đứa bé mới chập chững vào lớp một, bước đầu học đọc, học viết, học đặt câu. Nó réo lên, “Mẹ ơi spell dùm con chữ ‘bush’.” “À, ‘push’ hả?” “Không, con nói là ‘bush’, không phải ‘push’, ‘b’ không phải ‘p’…” Người mẹ bắt đầu lúng túng, bởi lưỡi người lớn cứng rồi, sao mà khó phân biệt ‘b’ hay ‘p’ quá.

Hay có khi từ trường trở về, nó hào hứng kể cả một câu chuyện dài xảy ra ở lớp, vốn tiếng Việt không đủ, nó sử dụng tiếng Anh. Cha mẹ không hiểu, hỏi đi hỏi lại, đến lúc nó ôm đầu và bảo, “Never mind, không có gì” thì cả cha mẹ lẫn con đều cảm thấy sự bất lực của mình. Con mất đi sự phấn khởi lúc đầu. Cha mẹ buồn sao con mình không nói được tiếng Việt hay tự trách mình sao không hiểu hết tiếng Anh.

Bên cạnh đó, lại có những cha mẹ chỉ thuần sử dụng tiếng Anh với con, tự hào là cha mẹ và con cái đều có thể chia sẻ mọi điều. Nhưng một sớm mai kia, bất chợt có người nói, ‘Con người Việt sao không nói được tiếng Việt’ mới giật mình, “không chừng con mình đã mất gốc tự lúc nào…”

Tôi mượn câu chuyện sau đây của một người bạn, cũng là môt người mẹ, để mỗi chúng ta tự suy nghĩ cho chính mình.

“Hôm nay trong lớp của Beo có tổ chức một trò chơi gọi là ‘Teach in a Teaching Day.’ Mỗi đứa sẽ thay phiên nhau lên dạy hay hướng dẫn những bạn khác trong lớp bất cứ kỹ năng gì mà mình thích.

Beo suy nghĩ mãi mà vẫn không biết nó sẽ làm gì. Cuối cùng, Beo quyết định sẽ dạy vài câu tiếng Việt xã giao. Mẹ khen ý kiến đó hay. Thế là buổi tối hai mẹ con lên một danh sách vài câu tiếng Việt thông thường cùng cách đếm số một hai ba.

Beo nằm lăn ra tập viết và tập đọc suốt buổi tối.

Thấy con khổ sở đánh vần, mẹ mới ngỡ ngàng là cái vốn tiếng Việt của thằng con trai 10 tuổi của mình chỉ bằng con số không.

Beo đọc đã rất khó khăn, ngay cả việc đếm từ 1 tới 10, huống gì tới viết.

Nhưng thấy con cố gắng, mẹ cũng không tỉ mỉ sửa lại cho hoàn hảo, bởi không muốn làm con thất vọng mà nản chí.

Sáng nay, trên đường lái xe đưa con đến trường, mẹ hỏi vui, ‘con đã sẵn sàng chưa?’ Beo lắc đầu, "I do not want to do it. I cannot do it."

Mẹ sững sờ, phát cáu lên. Giận mà la con ngay trong xe. Rồi tự nhiên mẹ bật khóc vì thất vọng, buồn, và cả cô đơn nữa. Hai mẹ con đã tập dợt cực lực cả đêm hôm qua, giờ con nói là con làm không được. Con là người Việt Nam thế mà chỉ vài câu tiếng Việt thông thường nhất mà bì bõm không xong thì còn làm quái gì được.

Con thấy mẹ giận thì im re. Sau đó lí nhí cũng bằng tiếng Anh là con đã có kế hoạch khác, con sẽ dạy tui nó xếp máy bay bằng giấy vậy.

‘Tùy con,’ mẹ hờn dỗi.

Con vào trường rồi, lòng mẹ chùng lại. Con không nói được tiếng Việt thì con không có đủ tự tin để mà dạy người khác. Con tự hiểu con không thể làm đại khái như người lớn được.

Mà con không nói được tiếng Việt là tại mình hết chứ có phải tại nó đâu mà la nó. Ừ, tại mình tất.

Hồi còn ở chung nhà, có bà nội nói tiếng Việt thường xuyên với con, mẹ thì nửa Anh nửa Việt. Rồi bà nội mất. Tiếng Việt trong nhà không còn ai nói. Mẹ lại bận bịu với chuyện học hành để mong lấy lại mảng bằng đại học, rồi cao học để sau này cuộc sống sẽ vững vàng hơn. Mẹ vất vả học tiếng Anh với cuốn từ điển tiếng Việt bên cạnh, sẵn đó thì mẹ giúp con mà cũng là đem con ra để mà thực hành tiếng Anh cùng mẹ, chứ mẹ không có thời gian dạy con học tiếng Việt hay mang con đến nhà thờ hay chùa Việt Nam vào cuối tuần cho con nói tiếng Việt với những đứa trẻ Việt khác.

Càng ngày, mẹ lại càng chỉ nói toàn tiếng Anh với con cho nhanh để không phải giải thích. Con ở một nơi không hề có bóng người Việt, hoặc nếu có thì người ta cũng nói với nhau bằng tiếng Anh cho nó nhanh.

Mẹ nhớ hôm dẫn con về Việt Nam thăm ngoại, thấy con không nói được một câu tiếng Việt nào cho ra hồn, ai cũng trách, trong khi mẹ thì vẫn thản nhiên, ‘Thì từ từ nó cũng nói được thôi. Nó vẫn là Việt Nam mà.’

Buổi tối đi ngủ, mẹ kể chuyện cổ tích Việt Nam cho con nghe bằng tiếng Anh. Mẹ không biết dịch từ trái thị ra tiếng Anh là gì nên khi kể chuyện Tám Cám, mẹ ghép bừa trái thị bằng trái cam (orange). Bà ngoại hỏi, ‘Sao không kể cho nó nghe bằng tiếng Việt.’ Mẹ kêu, ‘Con buồn ngủ quá rồi. Kể nhanh cho nó đi ngủ. Nếu kể bằng tiếng Việt, rồi lại phải giải thích bằng tiếng Anh, chắc tới sáng luôn quá!’

Bà ngoại im lặng.

Giờ nhớ lại, mẹ nghĩ chắc lúc đó bà ngoại buồn lắm. Và cũng rất cô đơn như mẹ bây giờ. Vì cháu cưng của bà không nói chuyện được với bà, còn con của bà thì xì xồ với cháu bà bằng cái thứ tiếng gì đó mà bà nghe không được. Xa lạ quá. Ngày xưa, bà ngoại kể chuyện Tấm Cám cho mẹ hằng đêm. Mẹ say sưa nghe, mải không chán. Bây giờ, mẹ kể cho con nghe bằng tiếng Anh, thì cũng đại khái để thoả mãn trí tò mò con nít, chứ không bay bổng ‘vàng ảnh vàng anh, hay thị ơi thị rụng bị bà’ được. Con mình không có cái diễm phúc đó. Chỉ vì nó không biết tiếng Việt.

Chẳng phải mẹ chảnh chẹ không muốn con mình học tiếng Việt. Cũng chẳng phải cái vốn tiếng Anh của mẹ hay ho gì để có thể tự tin mà dạy con.

Chỉ bởi cái vốn tiếng Việt của con đã ep hẹo từ ngày con bé, thì càng lớn, càng mất đi thêm. Con lớn rất nhanh. Hỏi mẹ nhiều hơn. Lắm lúc mẹ phải nghiên cứu trên Internet để học thêm rồi mới trả lời cho con được. Mà cái vốn tiếng Việt của con làm sao đáp ứng được cái kiến thức cần thiết của con. Thế là mẹ xài tiếng Anh cho nhanh. Cho xong việc. Rồi cứ hớn hở động viên mình ráng học thêm tiếng Anh với con. Vì vậy, cái chuyện học tiếng Việt của con lại có cớ xếp xó. Mẹ cứ tự nhủ, ‘từ từ tụi nó học, biết mấy hồi.’
Cho đến hôm nay, mẹ thấy thằng con 10 tuổi của mẹ phát âm líu cả lưỡi từ 1 tới 10, tim mẹ thắt lại. Mẹ sai rồi.

Bao nhiêu đề tài mẹ làm toàn là đề cao văn hóa, con người, truyền thuyết, lịch sử Việt Nam. Mẹ lúc nào cũng lớn tiếng tự hào mẹ là người Việt Nam, da vàng mũi tẹt.
Thế mà có mỗi việc dạy con tiếng Việt thì hơn 10 năm nay, mẹ đã làm không được.”

Thực sự, nói với con bằng thứ ngôn ngữ nào đây, tiếng Việt hay tiếng Anh, hình như không dễ dàng như người ta tưởng.

Entry for June 09, 2009 Báo Mới




Little Saigon nhỏ tí ti và là nơi tập trung đông đảo người Việt nhất ở Mỹ, cho nên ai ở đây thì không cần phải biết một chút tiếng Mỹ nào vẫn cứ sống phây phây, bởi tất cả hàng quán, chợ búa, trường học, công sở, bưu điện, ngân hàng, bệnh viện... không loại trừ ở đâu, đều có nhân viên người Việt phục vụ tận tình.
Và cũng chính vì vậy cho nên chỉ trên một con đường Moran có chút xíu thôi, lại hội tụ không biết bao nhiêu là cơ quan báo chí truyền thông tiếng Việt (gọi đó là con đường báo chí cũng không ngoa chút nào!)
Sắp tới đây, vào ngày Lễ Ðộc lập của Mỹ, July 4, sẽ có thêm một tờ báo nữa ra đời, góp mặt cùng làng báo Bolsa.
Ðó là tờ Việt Herald. (trong hinh la to sample)
Có lẽ chỉ có mỗi sếp tui, nhà văn Hoàng Mai Ðạt, mới dám cầm một lúc 2 tờ báo đối đầu nhau như thế này để cho tôi chộp ảnh thôi! (bởi là người khác thì là “lên đường” luôn rồi!)
Anyway, chúc mừng bạn bè tôi!

Sunday, June 7, 2009

Entry for June 07, 2009 "Đó là một sinh viên biết vượt lên những thách thức."

“Câu chuyện của tôi không có gì đặc biệt đâu cô,” bà Cơ Nguyễn mở đầu cuộc nói chuyện khi biết ý định của tôi muốn tìm hiểu về quá trình học tập cũng như một chút gì đó về cuộc đời riêng của bà như thế.

Có thể như bà Cơ đã nói, câu chuyện cuộc đời bà không phải là đặc biệt, là duy nhất, nó cũng có nét rất chung của những người phụ nữ Việt Nam. Thế nhưng chuyện một người vợ mà chồng mất khi bà chưa tới 40, một mình bươn chải nuôi mười người con ăn học thành tài, và quan trọng hơn, bà đã đeo đuổi chương trình học vấn trên vùng đất mới này suốt 10 năm ròng rã để cuối cùng tốt nghiệp đại học cộng đồng ở lứa tuổi 72 thì không phải là câu chuyện dễ tìm trong số đông.

Tôi biết đến bà Cơ Nguyễn qua một bài viết của trường Coastline Community College (CCC) giới thiệu về quá trình học tập của bà ngay trước ngày trường tổ chức lễ tốt nghiệp cho các sinh viên của mình. Vì lý do sức khỏe, bà Cơ đã không có mặt trong buổi lễ quan trọng ấy. Và như một sư may mắn, tôi lại có được lá thư bà viết bằng nét chữ học trò chân phương gửi cám ơn trường CCC, cám ơn thầy cô và những người đã giúp đỡ bà. Dò theo số điện thoại có trên thư, tôi đã có cuộc chuyện trò cùng bà Cơ Nguyễn.

“Chồng tôi qua đời năm 42 tuổi, khi đó tôi 36. Mười sáu ngày sau khi nhà tôi mất, tôi sanh đứa con út...” Giọng bà chùng xuống, thật buồn, khi nhắc lại những ngày tháng mà bà những tưởng là mình không thể nào sống nổi. Một nách mười con đã là chuyện không dễ dàng trong việc nuôi nấng dạy dỗ, lại thêm một mình nuôi đàn con thơ dại trong những năm tháng sau khi cuộc chiến kết thúc lại là chuyện không đơn giản chút nào.
“Tôi nuôi con trong sự nghèo khó, cơ cực. Tôi vừa đi dạy ở trường, vừa đi dạy kèm để kiếm tiền nuôi con. Có những hôm dạy đến tận 10 giờ tối, trời mưa tầm tã, tôi lạc đường, lo lắng, lo sợ, đủ thứ hết...”

Nhưng cái khổ dành về cho mình thì có sá gì với người mẹ. Ðiều làm bà cảm thấy đau đớn và xót xa hơn chính là nhìn những đứa con mình đói kém. Nỗi niềm đó giờ đây nhắc lại bà vẫn còn cảm thấy ray rứt, “Chúng học luyện thi đại học mà chỉ có trong bụng chén cháo đậu đỏ, cơm không đủ ăn. Tội lắm, cô ơi...” Chỉ một câu nói nghẹn ngào khi gợi nhớ tuổi thơ đói khổ của con mình đủ bộc lộ cái vô cùng của lòng mẹ thương con biết đến dường nào.

Mà nào đâu chỉ nuôi con, bà còn tự tay chăm sóc cho mẹ già bị bệnh lẫn (mất trí nhớ) suốt bảy năm ròng rã. Ngày mẹ mất, bà lại chắt mót dành dụm để xây cho mẹ mình chiếc kim tĩnh như đúng ý nguyện của người xưa.

Sang Mỹ theo diện bảo lãnh từ năm 1998, khi bà đã ở tuổi về hưu, nhưng bản tính của một người mẹ đầy nghị lực và không muốn làm phiền con cái, khiến mỗi ngày bà đều tìm báo Người Việt đọc để kiếm việc làm thêm. Khi biết ý định đó của bà, các con đều chung suy nghĩ “Má đã làm việc cực khổ bao nhiêu lâu nay cho tụi con, giờ má hãy nghỉ ngơi, để tụi con đi làm.”

Thế là bà bắt đầu việc quay trở lại trường học từ đó.

Bà tâm niệm “It’s never too late to learn - Không bao giờ quá trễ cho chuyện học hành,” và quãng đường học của bà là một minh chứng cho điều đó.

Bà Cơ nói, “Tôi già rồi, đi học vì thấy vui với tuổi già, đi học chỉ là để mở mang thêm một chút kiến thức, để cho não mình hoạt động. Học để tự biết chăm sóc bản thân. Thêm nữa, vì tôi sợ nếu tôi bị bệnh lẫn (mất trí nhớ) như má tôi ngày xưa thì khổ cho các con tôi, cho nên tôi phải học.”

Nghe thì đơn giản nhưng những ai cắp sách đến trường khi đã có gia đình, bước qua tuổi 40, và với một ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ thì mới hiểu hết cái cực của người đi học là như thế nào, huống chi khi ấy bà Cơ đã hơn 60.

Bên cạnh suy nghĩ “đi học vì thấy vui với tuổi già,” bà Cơ nói một cách chân thành, “Ði học thực sự nhiều khi rất mệt và cực lắm. Mình già rồi, trí óc đâu còn minh mẫn như thời trẻ. Công sức, thời gian bỏ ra rất nhiều. Ðôi khi thấy rất miễn cưỡng với chuyện học hành.”

Mệt mỏi và khó khăn như thế nhưng bà không hề xao lãng và bỏ cuộc. Thời gian đầu, khi gia đình còn ở Garden Grove, mỗi ngày bà đón 6 chuyến xe bus đến trường và về nhà. Sau đó, khi gia đình chuyển về Riverside sinh sống, tuổi đời càng chồng chất thì những chuyến xe đi về của bà cũng tăng lên. 5 chuyến đến trường (50 miles~80km), 5 chuyến về nhà (50 miles) bất chấp nắng mưa gió rét, cho đến khi ra trường, tổng cộng 10 năm. Ðiều gì đã cho bà nghị lực đó? Bà tâm sự, “Ngày xưa tôi là một cô giáo dạy trẻ con. Tôi thương học trò tôi lắm. Thêm nữa, tôi là người luôn nhớ ơn những ai đã tốt với mình, giúp đỡ mình.” Chính vì suy nghĩ “cái gì cũng phải có trước có sau” theo quan niệm Á Ðông, mà sự tận tụy, nhiệt tình giúp đỡ của những người làm việc tại trường Coastline đã giữ chân bà. Bà đã gắn bó với ngôi trường đó trong suốt thời gian học hành của mình, không muốn chuyển đi đâu hết.

Khi được hỏi ‘Cô có nhận xét gì về bà Cơ Nguyễn?” cô Michelle Ma, giám đốc Tiếp Thị và Giao Tế của trường Coastline, cho biết, “Co Nguyen là một sinh viên tuyệt vời! Bà ấy bắt đầu học từ những lớp ESL tại trường Coastline, sau đó chuyển lên chương trình bình thường và đã tốt nghiệp cao đẳng (A.A. degree in general studies) vào ngày 16 Tháng Năm.

Với cô Tina Xa, nhân viên chương trình EOPS (Extended Opportunities Programs and Services) thì “Co Nguyen là một sinh viên biết vượt lên những thách thức.” Cô Tina cũng cho rằng, “Co Nguyen là một sinh viên tuyệt vời. Bà đã làm việc rất chăm chỉ và dành trọn cuộc đời mình cho mười người con. Niềm đam mê của bà là việc dạy học, nên bà có ý định chuyển tiếp lên trường đại học Fullerton để lấy bằng cấp về giảng dạy. Với số điểm GPA cao và sự chăm chỉ vượt bậc, chúng tôi biết bà ấy sẽ thành công!”

Cũng theo thông tin từ trường Coastline thì tháng Năm 2008, bà Cơ đã được nhận học bổng The Leisure World Oasis, và tháng Năm 2009 bà lại được nhận một học bổng khác mang tên The Foundation Scholarship Award.

Nhìn lại cuộc đời mình, bà Cơ nói, “Tôi nghĩ mình chỉ như một hạt cát giữa sa mạc mênh mông.” Tháng Năm vừa qua, câu chuyện của bà Cơ Nguyễn đã được nêu lên trong lễ tốt nghiệp của trường CCC. Câu chuyện của bà đâu chỉ làm xúc động những người Việt Nam có mặt ngày hôm đó, quan trọng hơn, nó còn khiến cho mỗi người Việt Nam cảm thấy tự hào hơn khi nghe những tiếng trầm trồ ngưỡng mộ của những người thuộc sắc dân khác.

Ðúng, “một con én không thể làm nên mùa xuân” như bà Cơ đã nói, nhưng khi nó cất tiếng người ta biết rằng xuân đang ở quanh đây. Vâng, chúng ta có quyền tự hào lắm chứ!
Xin được chuyển ngữ lá thư bà Cơ Nguyễn đã viết gửi cho trường CCC sau khi bà tốt nghiệp để hiểu thêm về tâm sự của bà.

“Sẽ không bao giờ trong cuộc đời tôi quên được những năm đã học tại trường Coastline Community College. Tôi vô cùng tri ân sự giúp đỡ và lòng tốt mà trường đã dành cho tôi trong những năm tháng đó.

Thoạt đầu, tôi đến trường CCC bởi trường nằm ngay trung tâm của cộng đồng Việt Nam. Năm 2004 gia đình tôi chuyển đến Riverside, nhưng tôi không muốn chuyển đến học tại những trường gần nhà. Thay vào đó, tôi dành thời gian đón những chuyến xe bus khác nhau từ Riverside đến Garden Grove, Westminster bởi sự quý mến ân cần của thầy cô giáo, những người tư vấn của trường đã níu chân tôi.

Là một sinh viên lớn tuổi nên sự bén nhạy và mau mắn trong suy nghĩ của tôi đã giảm nhiều, vì thế tất cả thầy cô phải có thêm lòng kiên nhẫn và sự giúp đỡ dành cho tôi. Những người tư vấn, những nhân viên văn phòng ở phòng Tài chính và EOPS đã luôn dành thời gian nhiều hơn để giúp đỡ tôi khi tôi can sự hướng dẫn. Tôi không thể nào diễn tả hết lòng biết ơn của tôi đối với trường CCC nói chung và nước Mỹ nói riêng.

Tôi đến Mỹ khi đã ở tuổi về hưu. Ðất nước này đã cho tôi cơ hội để có được nền học vấn mà tôi đã không có được nơi quê nhà. Thầy cô và mọi người đã hỗ trợ tôi rất nhiều để giờ đây tôi có thể tốt nghiệp được. Thời gian tôi học tại trường CCC là một kinh nghiệm quí báu liên quan đến cách nhân và tri thức cuộc đời tôi. Tôi cảm thấy biết ơn vô cùng khi được là sinh viên của trường.

Tôi sẽ luôn giữ mãi những kỷ niệm ngọt ngào với trường. Xin chúc sức khỏe và thành công đến với tất cả mọi người.

Trân trọng,

Co Nguyen

25 Tháng Năm, 2009”

(N.L)

Wednesday, June 3, 2009

Entry for June 03, 2009

Không biết bé Ti làm gì với môn Văn của nó, nó chỉ bảo đó là trò chơi và nhờ mẹ viết mấy chữ đó lên chân Ti và Bi, xong chụp hình dùm nó để nó nộp cô lấy điểm khuyến khích.

Những cách học 'tếu lăm' này khi nào VN mới áp dụng nhỉ?

IMG_1582 by you.

Tuesday, June 2, 2009

Entry for June 03, 2009 Con người luôn thú vị

Hình như lâu lắm rồi tôi mới sống lại tâm trạng hưng phấn trong công việc của mình.
Tôi cảm thấy có quá nhiều điều thú vị và hay ho mà tôi học được qua các nhân vật mà tôi tiếp xúc để phỏng vấn.
Tôi vẫn giữ được quan niệm của mình là khi tìm hiểu một con người, tôi tránh mọi sự tác động bởi những định kiến hay nhận xét của người khác. Tôi muốn có cái nhìn chủ quan của mình, tôi muốn quan sát và nhận xét họ trong cái cách mà họ nói chuyện. Cảm tính có thể không hoàn toàn đúng, nhưng trong chừng mực nào đó, tôi tin vào trực giác và cảm nhận của mình.
Tôi vẫn hay muốn lắng nghe nhận xét của một người bạn về những điều mà tôi quan tâm, rồi tôi tự đối chiếu với những suy nghĩ của riêng tôi.
Tôi cũng vẫn luôn cảm thấy mình là người may mắn, bởi những người tôi đang làm việc cùng cũng như những người bạn tôi thân thiết, đã luôn cho tôi những cơ hội, cũng như ý kiến, để tôi lại có thể vững tin vào chuyện mình làm và mình sẽ làm tốt.
Với tôi, mỗi người luôn là một thế giới đầy bí ẩn, càng tìm hiểu càng khám phá càng cảm thấy bao điều thú vị, thú vị trong cả điều hay lẫn điều dở. Không có cuộc đời nào là boring và đáng chán. Mỗi người đều có lý do cho sự tồn tại của mình và cho mọi việc mình làm. Cũng như sự gặp gỡ của con người trong cuộc đời này cũng do những duyên may...

Friday, May 29, 2009

Entry for May 29, 2009 Không bình thường

Trân Văn: Thưa, phải điện thọai của ông Phạm Đức Hải không ạ?

Ông Phạm Đức Hải: Dạ đúng rồi ạ!

Trân Văn: Thưa ông, tôi là Trân Văn ở Đài Á Châu Tự Do. Thưa ông, ông nghĩ sao về lá thư mà ông Michael Michalak (NV: đại sứ Hoa Kỳ tại VN) gửi ông ạ?

Ông Phạm Đức Hải: Dạ, tôi... tôi... tôi không biết anh ạ! Có gì anh... anh... anh... anh... anh... anh... anh... anh gọi lại nghe. Anh gọi lại sau nghe

Trân Văn: Ông có thể dành cho tôi vài phút để hỏi thăm về một số vấn đề không ông?

Ông Phạm Đức Hải: Dạ không ạ! Không ạ! Anh... Anh... Anh... Có gì anh cứ tới báo với tôi nghe! Anh tới báo nói chuyện với tôi... nghe! Dạ vâng... (tiếng điện thoại bị tắt)

…….

Trên đây là một mẫu cuộc điện đàm giữa Trân Văn, phóng viên đài RFA và Tổng Biên Tập Báo Tuổi Trẻ Phạm Đức Hải khi nói về bài báo “Chuyện không bình thường” đăng trên báo Tuổi Trẻ ngày 11 tháng 5, 2009.

Tuesday, May 26, 2009

Entry for May 27, 2009




Sometime, I look like this :p

Thursday, May 21, 2009

Entry for May 22, 2009 Nhảm

"Đa tình tự cổ không dư hận" tức là kẻ đa tình xưa nay thì không có hơi đâu mà giận .

Thế cho nên mới "Dĩ hận miên miên vô tuyệt kỳ" (mối hận đó miên man hoài chẳng biết đến bao giờ mới hết)

Ủa nghe sao hơi kì kì?

Đúng ra phải là "Đa tình tự cổ luôn ôm hận" chứ?

Hehehe "Đa tình tự cổ không dư hận" là kẻ đa tình xưa nay chỉ luôn ôm hận mà thôi.

Hay nói vậy nè:

Đa tình tự tử trên cây mận

Gặp gió lung lay... té lọi giò"

hehehe

Tự dưng thắc mắc cái câu "đa tình..." gì đó là của ai vậy nhỉ?

Thursday, May 14, 2009

Entry for May 15, 2009




Không dám có ý kiến nữa :(

Nguon o day

Sunday, May 10, 2009

Entry for May 10, 2009




This is my new car :p

(that color is cypress green)

Entry for May 10, 2009

Today you will have a supernatural ability to cut right through all the noise and get to the real heart of any matter. You'll be an excellent peacemaker, a clever negotiator, and a respected leader -- so naturally your words will carry lots of weight right now. And even though keeping the peace is not your job, it will feel good to volunteer for that role. You like helping people get along! Today, you can make everyone happier -- and make your life much easier.

(just for me, not for you guys ;-)

Tuesday, May 5, 2009

Entry for May 06, 2009

Tôi đọc được bài thơ này bên blogspot của Marcus. Bài thơ của Đỗ Trung Quân viết khi "Sài Gòn giải phóng" được 7 năm.

Đọc bài thơ này lại chợt nhớ đến "Cỏ hoa cần gặp" cũng cùng tác giả (Để tìm lại)

TẠ LỖI TRƯỜNG SƠN

(1982)

1.

Một ngàn chín trăm bảy mươi lăm

Các anh từ Bắc vào Nam

Cuộc trường chinh 30 năm dằng dặc

Các anh đến

Và nhìn Sài Gòn như thủ đô của rác

Của xì ke, gái điếm, cao bồi

Của tình dục, ăn chơi

“Hiện sinh-buồn nôn-phi lý!!!”

Các anh bảo con trai Sai Gòn không lưu manh cũng lính ngụy

Con gái Sài Gòn không tiểu thư khuê các, cũng đĩ điếm giang hồ

các anh bảo Sai Gòn là trang sách “hư vô”

văn hóa lai căng không cội nguồn dân tộc

ngòi bút các anh thay súng

bắn điên cuồng vào tủ lạnh, ti vi

vào những đồ tiêu dùng mang nhãn Hoa Kỳ

các anh hằn học với mọi tiện nghi tư bản

các anh bảo tuổi trẻ Sài Gòn là “thú hoang” nổi loạn

là thiêu thân ủy mị,yếu hèn

các anh hùa nhau lập tòa án bằng văn chương

mang tuổi trẻ Sài Gòn ra trước vành móng ngựa!!!

2.

Tội nghiệp Sài Gòn quá thể

Tội nghiệp chiếc cầu Công Lý

Có anh thợ điện ra đi không về

Tội nghiệp những “bà mẹ Bàn Cờ” của những ngày chống Mỹ

Lửa khói vỉa hè nám cả những hàng me

Tội nghiệp những người Sài Gòn đi xa

Đi từ tuổi hai mươi

Nhận hoang đảo tù đày để nói về lòng ái quốc

Có ai hỏi những hàng dương xanh

Xem đã bao nhiêu người Sài Gòn hóa thân vào sóng nước

Tội nghiệp nhưng đêm Sài Gòn đốt đuốc

Những “người cha bến tàu” xuống đường với bao tử trống không

Tội nghiệp nhưng ông cha rời khỏi nhà dòng

Áo chùng đen đẫm máu

Tội nghiệp những chiến trường văn chương, thi ca, sách báo

những vị giáo sư trên bục giảng đường

ưu tư nhìn học trò mình nhiễm độc

Sài Gòn của tôi-của chúng ta.

có tiếng cười

và tiếng khóc

3-

Bảy năm qua đi với nhiều buồn vui đau xót

Một góc phù hoa ngày cũ qua rồi

Những con điếm xưa có kẻ đã trở lại làm người giã từ ghế đá công viên để sống đời lương thiện

Những gã du đãng giang hồ cũng khoác áo thanh niên xung phong lên rừng xuống biển

Tìm lại hồn nhiên cho cuộc sống của mình

Cuộc đổi thay nào cũng nhiều mất mát hy sinh…

4-

Và khi ấy

Thì chính “các anh”

Những người nhân danh Hà Nội

Các anh đang ngồi giữa Sài Gòn bắt đầu chửi bới

Chửi đã đời .

Chửi hả hê

Chửi vào tên những làng quê ghi trong lý lịch của chính mình

Các anh những người nhân danh Hà Nội sợ đến tái xanh

Khi có ai nói bây giờ về lại Bắc!!!

Tội nghiệp những bà mẹ già miền Bắc

Những bà mẹ mấy mươi năm còng lưng trên đê chống lụt

Những bà mẹ làm ra hạt lúa

Những năm thất mùa phải chống gậy ăn xin

Những bà mẹ tự nhận phần mình tối tăm

để những đứa con lớn lên có cái nhìn và trái tim trong sạch

Bây giờ

Những đứa con đang tự nhận mình “trong sạch”

Đang nói về quê mẹ của mình như kẻ ngoại nhân

Các anh

đang ngồi giữa Sài Gòn nhịp chân

đã bờm xờm râu tóc, cũng quần jean xắn gấu

Cũng phanh ngực áo, cũng xỏ dép sa bô

Các anh cũng chạy bấn người đi lùng kiếm tủ lạnh ti vi, cassette, radio…

Bia ôm và gái

Các anh ngông nghênh tuyên ngôn “khôn và dại”

Các anh bắt đầu triết lý “sống ở đời”

Các anh cũng chạy đứt hơi

Rượt bắt và trùm kín đầu những rác rưởi Sài Gòn thời quá khứ

Sài Gòn 1982 lẽ nào…

Lại bắt đầu ghẻ lở?

5-

Tội nghiệp em

Tội nghiệp anh

Tội nghiệp chúng ta những người thành phố

Những ai ngổn ngang quá khứ của mình

Những ai đang cố tẩy rửa “lý lịch đen”

Để tìm chỗ định cư tâm hồn bằng mồ hôi chân thật

6-

Xin ngả nón chào các ngài

“Quan toà trong sạch”

Xin các ngài cứ bình thản ăn chơi

Bình thản đổi thay lốt cũ

Hãy để yên cho hàng me Sài Gòn

Hồn nhiên xanh muôn thưở

để yên cho xương rồng, gai góc

Chân thật nở hoa

Này đây!

Xin đổi chỗ không kỳ kèo cho các ngài cái quá khứ ngày xưa

Nơi một góc (chỉ một góc thôi)

Sài Gòn bầy hầy, ghẻ lở

Bây giờ…

Tin chắc rằng trong các ngài đã vô số kẻ tin vào “thượng đế”

Khi sống hả hê giữa một thiên đường

Ai bây giờ

Sẽ

Tạ lỗi

Với Trường Sơn?

Đỗ Trung Quân (1982)

Monday, May 4, 2009

Entry for May 05, 2009

Nói là last entry, và sẽ cho blog này biến mất. Nói thì tưởng dễ nhưng ai ngờ lại không đơn giản chút nào.

Bắt đầu là phải delete từng người trong Friends list, vì không có chế độ "select all" xong rồi chỉ cần bấm delete, một nhát một là xong tất cả, mà phải xóa từng tên một. Hic, thế mới biết đã là bạn rồi thì muốn bỏ đi đâu có dễ đâu, hic.

Xong khâu đó rồi, mới đến delete quick comments. Hic, cũng làm từng cái một. Friends List thì có hơn 160 -170, còn quick comments thì mấy ngàn. Làm chừng nào mới xong đây? Hic. Thì cũng vậy, lời đã ghi xuống rồi thì cũng khó mà bay.

Cho nên sự nghiệp cho blog này biến mất coi bộ khó khăn và gian nan quá! (Nhưng hôm trước đã lỡ delete vài người rồi, cứ từ trên bấm xuống, đâu chừng mười mấy hai mươi người gì đó thì oải quá, hic. Bạn nào có để ý thì đừng giận nghe! Add lại cũng được mà :p) Thôi, cứ để vậy coi như còn chốn đi về mỗi khi muốn khóc lóc kể lễ ỉ ôi gì đó, biết sẽ có người dỗ dành, hic.

Nhưng dầu sao đã lỡ có nhà mới rồi thì cũng ở đó thường hơn. Ai muốn thăm tui thì cứ ghé http://www.nguyenngoclan.com

(cô D. ơi, em đưa link này cho cô lâu rồi mà, cứ vậy save lại cô há!)

Anyway, mỗi sáng và tối vẫn đều đặn lướt blog 360 của mọi người đó :p

P/s: chuyện chuyển qua Plus360 có thể bị theo dõi hay đáng cắp password lý ra anh Hạo Nhiên phải nói sớm hơn chứ! Ai đời chờ mọi người ùn ùn chuyển đi rồi thì mới tuyên bố sống chết gì cũng không đưa cổ vào tròng. Chơi xấu!

Wednesday, April 22, 2009

Entry for April 23, 2009 Last entry

Như một lời chia tay

Có lẽ đây là entry cuối cùng cho blog này.

Cũng không biết sao nữa, nhưng sẽ cho nó biến mất :p

Những bài vở cũ, giữ lại như một kỷ niệm, theo lời người bạn đã chuyển hết qua 360 Plus, nhưng chắc chắn đó sẽ không phải là nơi tui tiếp tục viết.

Lại nói như kiểu Nguyễn Bỉnh Khiêm:

"Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người đến chốn lao xao"

hehe, nghe ra rất "chảnh và láu cá", nhưng một phần bản chất của tui là vậy :p

Ừ, thì sẽ tìm một nơi vắng vẻ hơn và bắt chước như S "viết lại một profile khác cho đời mình." Hehehe, nghe cải lương quá nhưng cũng hay quá! Vậy thì cũng như khởi đầu của blog này, tui nghĩ những ai lại tìm đến với blog tui (nếu lại có :p) tức là tui có duyên với họ!

Hehe, đã bảo là sến thì sến cho trót: thế thì cám ơn tất cả mọi người đã dừng chân ở đây để tui luôn cảm thấy rằng nếu tôi trải lòng thì tôi sẽ nhận được sự chia sẻ và quanh tôi luôn có nhiều người dõi theo với những buồn vui của tôi.

Nếu ai đó bảo thế giới online là ảo thì có lẽ cũng đúng, bởi đến giờ này vẫn còn quá nhiều người tôi không biết là ai :p

Nhưng có điều với tôi thì là thật, ít ra là tên tôi là thật và những điều tôi viết là thật.

Cho nên bây giờ tôi nói rằng tôi sẽ cho blog này biến mất trong ít ngày tới thì cũng là thật, hehe

Chúc tất cả luôn tìm thấy sự bình an và niềm vui trong cuộc sống.

Mến,

NTNL

Entry for April 23, 2009 Last entry

Như một lời chia tay

Có lẽ đây là entry cuối cùng cho blog này.

Cũng không biết sao nữa, nhưng sẽ cho nó biến mất :p

Những bài vở cũ, giữ lại như một kỷ niệm, theo lời người bạn đã chuyển hết qua 360 Plus, nhưng chắc chắn đó sẽ không phải là nơi tui tiếp tục viết.

Lại nói như kiểu Nguyễn Bỉnh Khiêm:

"Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người đến chốn lao xao"

hehe, nghe ra rất "chảnh và láu cá", nhưng một phần bản chất của tui là vậy :p

Ừ, thì sẽ tìm một nơi vắng vẻ hơn và bắt chước như S "viết lại một profile khác cho đời mình." Hehehe, nghe cải lương quá nhưng cũng hay quá! Vậy thì cũng như khởi đầu của blog này, tui nghĩ những ai lại tìm đến với blog tui (nếu lại có :p) tức là tui có duyên với họ!

Hehe, đã bảo là sến thì sến cho trót: thế thì cám ơn tất cả mọi người đã dừng chân ở đây để tui luôn cảm thấy rằng nếu tôi trải lòng thì tôi sẽ nhận được sự chia sẻ và quanh tôi luôn có nhiều người dõi theo với những buồn vui của tôi.

Nếu ai đó bảo thế giới online là ảo thì có lẽ cũng đúng, bởi đến giờ này vẫn còn quá nhiều người tôi không biết là ai :p

Nhưng có điều với tôi thì là thật, ít ra là tên tôi là thật và những điều tôi viết là thật.

Cho nên bây giờ tôi nói rằng tôi sẽ cho blog này biến mất trong ít ngày tới thì cũng là thật, hehe

Chúc tất cả luôn tìm thấy sự bình an và niềm vui trong cuộc sống.

Mến,

NTNL

Tuesday, April 21, 2009

Entry for April 22, 2009

Ðang muốn đi xem phim "Bolinao 52" nhưng sợ...

Bolinao 52 - Sự cảm thông đến từ những người còn sống

(Bài trích từ báo NV)

Trong mỗi một con người đều có một địa danh để đến viếng thăm, với ai đó là Paris tráng lệ, là Roma uy nghi, hoặc thành Viên cổ kính... nhưng với chị Trịnh Thị Tùng, một thuyền nhân người Việt Nam, thì địa danh đó là Bolinao. Bolinao là thiên đường trên địa giới hay địa ngục của trần gian? Bolinao là một làng chài nhỏ ở Phillipines, ở nơi đó có tình người và chứa đầy sự cảm thông toàn vẹn.

“Bolinao 52” là một bộ phim kể về câu chuyện của những thuyền nhân tị nạn Việt Nam. Vào năm 1988, tại Bến Tre, miền Nam Việt Nam, có 110 người đã đào thoát khỏi Việt Nam trên một chiếc thuyền nhỏ bé, hướng ra biển khơi để bắt đầu chuyến hải hành đi tìm tự do, đi tìm nguồn sống mới. Ngay từ ngày đầu tiên trên biển họ đã gặp cơn bão lớn, người tài công quyết định ngưng máy và chờ cho cơn bão qua đi để tiếp tục chuyến hải hành.

Nhưng tắt rồi thì máy không bật lại được nữa. Và đó là sự khởi đầu bi thương của những định mệnh bị trôi dạt. Năm ngày, 10 ngày, rồi 19 ngày sau... Chị Tùng, người dẫn chuyện trong phim, kể lại câu chuyện bằng những ngôn từ mộc mạc, bình dân và chân thành: “Mọi người chết từ từ, mỗi ngày đều có người chết.” Chị nói về cái chết, về sự mất tích của những người đồng hành cách đây 17 năm như chính câu chuyện mới xảy ra hôm qua. Ra đi, họ hy vọng sẽ đến được bờ tự do nếu có sự cứu vớt, giúp đỡ... nhưng hy vọng đã quay lưng với họ.

Với quốc tế, tên gọi “Bolinao 52” (tức là chuyến tàu mang 52 người sống sót, tới được làng chài Bolinao) còn là biểu tượng của sự mệt mỏi của thế giới khi liên tục phải cưu mang người Việt Nam tỵ nạn. Một vị hạm trưởng Hải Quân Hoa Kỳ, chỉ huy chiến hạm USS Dubuque, đã bị đưa ra tòa án quân sự vì ông chỉ lệnh cho cung cấp đồ ăn và nước chứ không vớt những người tỵ nạn trên chiếc thuyền này - mặc dù vị hạm trưởng không hề nhận được phép vớt họ. Một kết quả bi thảm đã xảy ra. Lương thực cứu trợ đã hết, tàu bị ngập nước và đang chìm dần dần... những thuyền nhân đã bò đến bờ vực địa ngục của sự tuyệt vọng. Họ đã phạm phải một điều cấm kị kinh hãi khi phải tìm kiếm nguồn sống từ những miếng thịt của đồng loại. Vụ án “Bolinao 52” đã làm chấn động thế giới!

Không ai có thể lý giải được cuộc đời mình khi chính số phận của mình cũng không do chính mình định đoạt. Ðược sống, được cứu vớt, được cưu mang hay bị xua đuổi thậm chí phải bỏ cuộc. Chị Tùng cứ lặp lại câu nói “Mỗi người đều có số phận của nó” với một tâm trạng khắc khoải, như mong tìm lại một chút bình yên. Người sống, hay người đã chết đều mong muốn có một chút cảm thông. Sự cảm thông được đặt lên trên số phận.

Dân tộc Việt Nam ẩn chứa nhiều tiềm năng, trong đó tiềm năng giá trị nhất chính là sự chịu đựng khổ nhục và lụy phiền. Không chỉ riêng 52 con người trên chiếc tàu kia, mà còn rất nhiều thuyền nhân khác, đã sống sót và chấp nhận sự phiền lụy trong nỗi niềm câm lặng. Chị Trịnh Thanh Tùng, người sống sót, khi về thăm lại vùng đất ân nhân đã được những đàn bà người Phi trên đảo Bolinao gọi là “super woman”. Và với đạo diễn Ðức Nguyễn, chị Tùng thực sự là “super woman”, khi chị mạnh dạn nhận lời kể lại câu chuyện của chuyến hải hành đầy kinh hoàng đó.

Mang nỗi oan khuất của những người đồng hành xấu số, sự phẫn hận và thù ghét những trái tim của ý chí lạnh lùng... đã làm cho chị phiền lụy và đau khổ trong suốt 17 năm trời. Chị Tùng mặc dù đã ở bến bờ tự do, nhưng trong tâm khảm vẫn bị ràng buộc bởi những ám ảnh bi thương của chuyến tàu định mệnh.

Sự gặp gỡ giữa chị và người lính thủy trên chiến hạm USS Dubuque đã giải trừ nỗi phiền muộn, trăn trở hiểu lầm đến từ hai phía. Ðạo diễn Ðức Nguyễn đã cho họ gặp nhau, hàn gắn, để làm thanh thản và rửa lành những vết thương lòng sâu thẳm. Chị nói với người lính Mỹ: “It's OK now, I hope you don't feel bad like before.” Cả hai người đều khóc. Bolinao 52 đã làm cho người ta khóc. Khóc bởi vì họ là những con người.Trong mỗi con người chúng ta, khi rơi vào tình trạng tuyệt vọng và phải chịu nhận lãnh thảm họa thì ý chí sống bỗng trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. 52 con người sống sót trên chiếc thuyền đã có một sự chọn lựa đúng. Họ cần phải tát nước, họ cần phải ăn, vì họ cần phải sống.

Ðạo diễn Ðức Nguyễn đã không khai thác sự kiện Bolinao 52 như người ta đã khai thác trên khía cạnh rùng rợn, dã man gây chấn động. Ðức Nguyễn nói: “Tôi không muốn gợi lại sự hãi hùng mà là xoa dịu nỗi đau cho những người còn sống.”

Chị Trịnh Thị Tùng tìm về lại Bolinao, tìm lại quá khứ để cảm tạ những ân nhân. Chị tìm về lại Bolinao cũng để nhằm xoa dịu những nỗi đau của những người bạn đồng hành xấu số và quan trọng hơn là cho chính bản thân chị. Chị gặp lại người lính thủy xưa kia để hai bên xóa bỏ những mặc cảm hiểu lầm. Người sống tìm được sự cảm thông thì hy vọng người xấu số cũng ngậm cười nơi chín suối.

“Bolinao 52” là cuốn phim tài liệu không phê phán, tố cáo hay đòi quy trách nhiệm lên ai. Cuốn phim chỉ kể lại toàn bộ một chuyến hải hành của những thuyền nhân Việt Nam, với mong muốn tìm sự cảm thông đến từ nhiều phía.

Monday, April 20, 2009

Entry for April 20, 2009 Hình ảnh người em không đợi

Hình ảnh người em không đợi

Hoàng Thi Thơ

Ngày nào em đến
áo em màu trinh
áo xinh là xinh
áo em trong trời hồng
là gió là bướm là hoa
là mây chiều tà

Ngày nào em đến
nón em cầm tay
nón em màu mây
nón em sao thẹn thùng
kề tai để nói cùng anh
một câu chuyện lòng

Có bao giờ xóa nhòa
tà áo trắng
hình dáng người em
không ngóng chờ
một bài thơ đẹp thêm
tình duyên trên nón em

Để từ hôm ấy
nón em làm thơ
nón em đệt mơ
đã ghi trong cuộc đời
hình bóng người em
mà anh ngàn năm đợi chờ.

Sunday, April 19, 2009

Entry for April 20, 2009

Kinh thế suy thoái cũng có cái hay của nó!

Trước hết là người ta bớt ly dị đi, hehe (giảm tới 37%).

Biết lý do vì sao không?

Tại ly dị tốn tiền quá, hehehe. Kinh tế suy thoái nhưng luật sư không có discount (giảm giá) gì hết, cho nên muốn ly dị phải tốn ít nhất là $5,000, thậm chí có khi đến cả $100,000. Việc làm không có, nợ nần tùm lum thì còn đào đâu ra tiền mà ly dị chứ!

Mà như vậy thì cũng không có nghĩa là những ai đang độc thân thì cứ thích sống một mình cho khỏe đâu nghe! Hờ hờ

Patti Novak, chủ nhân của công ty mai mối Buffalo Niagara Introductions, ở Buffalo, New York, cho biết “Số vụ mai mối đưa đến hôn nhân đã tăng đến 30% trong 8 tháng qua.”

Biết sao không?

Vì càng chán cái mớ đời thì “người ta càng cần có nhau cho qua cái thời kỳ kinh tế khó khăn như hiện nay, chứ sống một mình thì thật là đau khổ... Hu hu. Dù gì thì hai người cùng ăn bắp rang và uống sữa với nhau cho đỡ đói vẫn vui hơn là gặm bắp rang và uống sữa côi cút một mình.”

Hehehe

Ðó, cái gì cũng có hay hay của nó là vậy đó!

Entry for April 20, 2009 Văn hóa cách biệt và cảm nhận khác biệt

Trích một đoạn trong bài viết cho một tờ báo (không phải NV :p)

Trích thôi, bởi không thì dài đọc oải quá, hehe!

ViFF và những điều còn đọng lại

Ngọc Lan

[...]

Văn hóa cách biệt và cảm nhận khác biệt

Thực sự, việc cảm nhận và đánh giá nội dung một bộ phim như thế nào là hay tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó vấn đề tác động của nền văn hóa và môi trường sống cũng như những trải nghiệm về cuộc sống riêng của mỗi cá nhân góp phần không nhỏ vào việc cảm thụ.

Ðối với một dân tộc thấm nhuần văn hóa Khổng Giáo phương Ðông và hiện nay đang sinh sống và phát triển trên một vùng đất màu mỡ của nền văn hóa Âu Mỹ đa dạng thì việc tìm được một sự đồng điệu đồng cảm đối với mỗi bộ phim là một điều không dễ dàng. Bởi nó thể hiện chiều sâu văn hóa, tâm linh cội nguồn mà mỗi người còn cất giữ cho riêng mình. Ðiều này có thể thấy rõ ràng qua việc khán giả bình chọn phim Babylift là bộ phim hay nhất dù đây là một phim tài liệu. Bởi đọng lại ở người xem, cho dù là khán giả Việt hay Mỹ, hay pha trộn giữa Việt và Mỹ chính là nỗi niềm: Trẻ thơ không có quyền lựa chọn thời điểm để được sinh ra nhưng lại là người phải chịu đựng, dự phần và trả giá cho những biến động lịch sử mà chúng vô tình bị ném vào. Những thương tổn trong kí ức, trong tình cảm - nếu có - của tuổi thơ chỉ có thể lành lặn và xóa nhòa trong sự nỗ lực tự vươn lên của mỗi cá nhân, bên cạnh tấm lòng và sự sẻ chia của những con người có trái tim vàng, như những người họ đã gặp trong phim.

Trong khi đó thì nội dung bộ phim “Trăng Nơi Ðáy Giếng” của đạo diễn Nguyễn Vinh Sơn đến từ đất Thần Kinh lại nhận được những phản hồi khác nhau. Với những người còn ảnh hưởng nhiều và hiểu rõ quan niệm “phu xướng phụ tùy,” hay việc tận tụy hy sinh vì chồng là thể hiện tình yêu, trách nhiệm và bổn phận của người vợ, người phụ nữ Việt Nam thì họ sẽ nhìn thấy và cảm thông với bi kịch của nhân vật Hạnh. Ngược lại, với những ai lớn lên và trưởng thành trong môi trường mà sự bình đẳng giữa nam và nữ được coi trọng, thì có lẽ họ sẽ “không thể nào chấp nhận và chịu được mẫu hình cá tính của nhân vật chính trong phim” bởi họ cho rằng “nó không thực.”

Và phải chăng, sự không thống nhất trong việc cảm nhận bộ phim cũng chính là những bằng chứng cụ thể và sinh động nhất về những xung đột tư tưởng giữa các thế hệ người Việt Nam đang sống trên đất Mỹ, thậm chí ngay cả ở những người trẻ trưởng thành trong nước và nơi đây?

Cho dẫu là gì đi nữa thì các bộ phim cũng đã góp phần đưa đến cho người xem nhiều diện mạo, nhiều sắc thái, nhiều vấn đề của một dân tộc nhỏ nhưng có quá nhiều những ẩn ức mà muốn hiểu được nó không thể chỉ là chuyện một sớm một chiều.

ViFF đã bế mạc, ngoài những kinh nghiệm được mất của những người tham gia mang tính chuyên nghiệp thì đâu đây, những câu chuyện về các bộ phim được trình chiếu, những băn khoăn về những cuộc đời, những số phận, những con người và cả những thắc mắc muốn tìm mua để sở hữu được những bộ phim đó của những khán giả bình thường chính là những phần thưởng dành cho ban tổ chức ViFF - những người gắn kết nhau không chỉ bởi niềm đam mê nghệ thuật mà cả bằng cái tâm trong sáng muốn đóng góp một chút sức mình trong việc khẳng định tiếng nói của người Việt Nam trên con đường hội nhập.

Friday, April 17, 2009

Entry for April 18, 2009

Hôm nay trong lúc buồn ngủ ngồi lượm lặt cóp nhặt được mấy câu thơ về “áo” hay nè (hehe, thực ra thì nhiều người đã biết, chỉ là gom lại thôi :P)

Em đến như mây, chẳng đợi kỳ,

Hương ngàn gió núi động hàng mi.

Tâm tư khép mở đôi tà áo,

Hò hẹn lâu rồi - Em nói đi !

(Tự tình dưới hoa - Ðinh Hùng)

Em đi áo mỏng buông hờn tủi

dòng lệ thơ ngây có dạt dào

(Ðôi Bờ - Quang Dũng)

Môi cười vết máu chưa se

cành hoa gạo cũ nằm nghe nắng hiền

Anh nằm nghe bước em lên

ngoài song lá động, trên thềm áo bay

(Khi Nàng Ðến - Trần Dạ Từ)

Mây cao, gót nhỏ, mây vào gót,

áo lụa trăng mềm bay xuống thơ

(Tám Phố Saigon - Nguyên Sa),

Có phải em mang trên áo bay

hai phần gió thổi, một phần mây?

Hay là em gói mây trong áo

rồi thở cho làn áo trắng bay?

(Tương Tư - Nguyên Sa)

Anh về giữa một dòng sông trắng

là áo sương mù hay áo em

(Paris có gì lạ không em?)

Áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc

Áo nàng xanh tôi mến lá sân trường

(Tuổi Mười Ba - Nguyên Sa)

Có phải mùa xuân sắp sửa về

hay là gió lạnh lúc đêm khuya?

hay là em chọn sai mầu áo

để nắng thu vàng giữa lối đi?

(Tương Tư - Nguyên Sa)

Ngày hành quân, anh đi về cánh rừng thưa

thấy sắc hoa tươi nên mơ mầu áo năm xưa

Kỷ niệm đầu len len trở về tâm tư

có mắt ai xanh thắm trong mộng mơ...

(Màu Kỷ Niệm - Phạm Ðình Chương)

Áo em tím cả phương này

anh nghe thành phố đêm nay trở buồn

(Áo Tím - Vũ Thành)

Áo em vạt tím ngàn sim

nửa nao nức gọi, nửa im lặng chờ

Yêu nhau từ độ bao giờ

gặp đây giả bộ hững hờ khói bay

(Ðộng Hoa Vàng - Phạm Thiên Thư)

“Thế giới của anh không có chân trời

không có mùa xuân lấy đâu hoa bướm

không có bàn tay cho bàn tay hò hẹn

áo tím qua cầu nên cũng hết mùa thu

(Thế giới của anh - Trang Châu)

Biển dâu sực tỉnh giang hà

còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh

(Áo Xanh - Bùi Giáng)

Thursday, April 16, 2009

Entry for April 16, 2009 Công việc của tôi (1)

Thấy người ta nói chuyện thất nghiệp hà rầm, tự dưng lại nhớ đến những công việc mà mình đã trải qua kể từ khi đặt chân đến đây.

Việc thứ nhất: Telemarketing

Tui có được việc làm này sau khi đến Mỹ được 3 tuần.

Khi ấy tui còn chưa biết công việc đó là cái gì. Tui chỉ đọc báo và thấy điều kiện người ta cần tuyển phù hợp với mình thế là tui gọi điện tới.

Chiều thứ sáu chị dâu chở tui đến đó để điền hồ sơ. Thực tình là tui còn không biết điền cái gì là cái gì, toàn tiếng Anh lạ quắc! May là có chị tui. Ông quản lí kêu thứ hai đến training từ lúc 12h trưa và 3h chiều sẽ làm chính thức. Công việc làm từ 3h đến 8:30, từ thứ hai đến thứ sáu. Còn nhớ ổng nói: giờ làm việc như vậy sẽ dễ dàng cho con đi học tiếp!

Đó là một hãng điện thoại đường dài gọi đi các tiểu bang và quốc tế. Công việc đại loại là người ta sẽ đưa cho tui 1 cái danh sách có họ tên và số điện thoại của nhiều người nằm trên khắp nước Mỹ. Nhiệm vụ của tui là sẽ gọi đến những số điện thoại đó để mời người ta vào đường dây điện thoại viễn liên của hãng…

Cùng vào đợt đó với tui còn có 5 người khác.

Sau khi training 3 tiếng thì một người lặng lẽ ra về.

Sau 2 ngày làm việc thì nhóm tui còn lại 2 người.

Và sau 2 tuần thì chỉ còn có tui!

Công việc nghe có vẻ rất nhẹ nhàng nhưng thực ra là… kinh khủng!

Cứ hãy hình dung là mình gọi cho một người không hề quen biết, và phải nói như thế nào để thuyết phục người ta tin để mà ghi tên vào. Mà ở cái xứ này thì nhiều người đã được cảnh báo trước với các cuộc gọi quảng cáo, cho nên có khi mình vừa mở miệng là họ cúp máy cái rụp; lịch sự hơn thì chờ mình nói vài câu rồi họ nhẹ nhàng từ chối; dữ dằn hơn thì họ chửi một câu tục tĩu rồi cúp máy (may là lúc đó tui hoàn toàn không hiểu câu đó là gì nên cũng coi như không!). Cho nên để có thể giữ người ta tiếp tục cuộc trò chuyện với mình trên đường dây điện thoại khoảng 20, 30 phút là cả một nghệ thuật!

Rồi chưa kể, gọi đến những nhà mà người ta nói tiếng Mỹ nhiều hơn tiếng Việt, hay cả những câu những chữ rất thông thường mà bây giờ thì với tui cũng là quen thuộc, nhưng với 1 đứa vừa mới đến Mỹ có 3, 4 tuần thì… cứ như vịt nghe sấm.

Khi người ta đồng í với các điều kiện của hãng rồi thì lại đến khâu kỹ thuật là phải cho thâu lại toàn bộ thông tin cá nhân của người đó bằng cách chỉ họ trả lời những câu hỏi trong máy ghi âm. Mà có những người lớn tuổi họ không biết rõ thì mình cứ như là nhắc tuồng: à, khi nào nghe đến chữ đó, chữ đó thì cô/chú sẽ nói cái gì bla bla bla. Đôi khi làm đi làm lại hoài không xong, oải quá người ta cũng đành bỏ cuộc (mà người ta không bỏ thì mình cũng tìm cách cho họ bỏ để còn gọi tìm khách hàng khác!)

Rồi lại đến cái màn đọc địa chỉ nhà nữa mới ghê. Đã nói là tui như một đứa từ trên trời rơi xuống vùng đất lạ, chưa phân biệt được họ nói avenue (Ave.), boulevard (Blvd.), street (St.), circle (Cr.), hay drive (Dr.) hay space (SPC) hay number (#) là nghĩa làm sao hết chứ đừng nói chi là họ nói nhanh cái tên đường, tên thành phố… Tui không biết cái gì hết, lại phải tìm cách năn nỉ hay nói sao cho người ta đánh vần lại dùm.

Nói chung là bây giờ thì những cái đó không là chuyện nhưng vào lúc ấy thì muốn khóc với nó.

Cứ hình dung là để tuyển người làm cho ca chiều như tui, thì tuần nào họ cũng tuyển, vậy mà có lúc suốt gần cả 1 tuần, chỉ có mỗi 1 mình tui làm, thì đủ thấy áp lực của công việc tưởng như nhẹ nhàng đó khủng khiếp ra sao!

Vậy mà tui làm rất ok! Khi đó lương tối thiểu của tiểu bang là $6.75/giờ, những người đi làm nhà hàng Việt Nam lãnh tiền mặt thì tính ra chỉ khoảng hơn $4/giờ. Vậy mà lúc ấy tui được trả khoảng $14/giờ - đó là số không nhỏ cho 1 đứa mới tinh như tui.

Có những lúc, tui còn là người huấn luyện tự nguyện cho những người mới đến nữa, chỉ họ từng chút một, kể cả cái cách làm sao mà “dụ khị” được khách hàng - đương nhiên điều đó còn tùy thuộc vào khiếu nói chuyện! Cho nên mọi người khoái tui lắm! hehe

Tui nhớ hoài người khách hàng đầu tiên của tui là hai vợ chồng một bác ở New York. Lúc “verify” xong xuôi hết mọi chuyện, bác đó mới hỏi: con qua đây lâu chưa? - dạ cũng 3 tháng rồi ạ. - Trời, mới 3 tháng mà sao giỏi vậy, dám đi làm công việc này! (Tui nói trong bụng: trời, nếu lúc đó tui nói thiệt là “con mới ở đây có 3 tuần thôi” thì bác ấy sẽ nói sao đây?). Mà ngay cả những người làm chung khi nghe là tui mới sang thì ai cũng tỏ vẻ không tin! WHY? hahaha

Có rất nhiều chuyện vui buồn trong thời gian tui làm công việc này. Nói đúng hơn cũng trong những cuộc gọi đó, tui đã có dịp nói chuyện với nhiều trường hợp rất lạ, mà đã có lần tui viết trong bài “Lộn số.”

Với công việc đầu tiên này tui có được 1 vài người bạn đáng mến. Đó là Dự - 1 cậu bé người Việt gốc Hoa, khi ấy cũng đã ở Mỹ khoảng 3 năm. Buổi sáng Dự đi học college, chiều đi làm ở đó. Dự vào sau tui khoảng 1 tuần. Tui cũng chỉ dẫn cho Dự những gì mình biết. Khi biết tui không có xe, Dự bảo: để em ghé chở chị đi làm luôn!

Sau biết là Dự phải đi vòng ngược đường rất xa, tui cảm thấy áy náy, nhưng Dự vẫn cứ tình nguyện xuống chở, đưa tiền xăng cũng không lấy!

Rồi kế nữa là Trang. Khi ấy Trang đang theo học Nurse ở trường mà tui đang học bây giờ. Cả Trang và Dự đều mới ngoài 20 thôi. Trang qua Mỹ từ lúc học lớp 7, nên tiếng Anh đương nhiên là giỏi rồi. Có hôm cuối tuần, Trang hẹn qua rủ tui và Dự đi ăn uống. Rồi khi Dự nghỉ việc thì Trang lại là đứa tình nguyện đến chở tui đi làm.

Làm được hơn 2 tháng, tuy kiếm nhiều tiền nhưng tui bị stress liên tục, thế là tui quyết định nghỉ việc.

Vẫn nhớ cả 2 người supervisor khi ấy đều gọi điện đến bảo: khi nào thích thì cứ quay lại, họ sẵn sàng nhận (bởi tui làm giỏi mà :p).

Nghỉ ở nhà 1 tuần, tui lại cầm báo tìm việc khác. Thấy có một nơi ghi “cần tuyển RN,” thế là tui lại nói với chị dâu chở tui đến xin việc.

Đến đó cũng là một buổi chiều. Gặp manager là một chị VN còn rất trẻ, cỡ tui thôi. Hỏi thấy ở đây cần tuyển “receptionist” phải không chị? – Không, chúng tôi đâu có tuyển receptionist, ở đây đang cần y tá thôi - Ủa, em đọc báo thấy vậy mà. Chị đó tỏ vẻ hơi ngạc nhiên. Nhưng khi ấy thì chị dâu tui lại bắt qua chuyện hỏi ở đó tuyển y tá thì như thế nào bla bla bla…

Sau đó về nhà tui mới biết chữ RN là viết tắt của “Registered Nurse” (y tá) mà tui lại đọc ba chớp ba nháng sao ra là “receptionist” (tiếp tân) không biết.

Vậy mà tui lại có việc làm ở đó! Hehe

Hôm khác kể tiếp.

Monday, April 13, 2009

Entry for April 13, 2009

Vừa mới dự bế mạc Liên Hoan Phim Việt Nam Quốc Tế lần 4.

Hehe, số tui đã nói là số hên mà! Hơn 60 bộ phim được chọn trình chiếu trong suốt thời gian liên hoan, tui chỉ xem có 5 phim, thì trong đó đã có 3 phim đoạt giải, kaka, mà cả 3 phim đó tui cũng đều có viết bài cảm nhận rồi, tatatata

Thôi, bây giờ mệt lắm rồi, đi ngủ đây. Ngày mai sẽ viết tiếp.

hehe, bắt chước người ta bon chen, sau khi phỏng vấn họ rồi thì chộp hình luôn, tatata

IMG_1536 by you.

với đạo diễn Minh Ngọc

IMG_1541 by you.
với Vũ Quí Hạo Nhiên (left) và đạo diễn Bùi Thạc Chuyên (right)

Sunday, April 12, 2009

Entry for April 13, 2009 đời di dân

Tùy bút

Từ những phim rất ngắn tại ViFF 2009, nhớ về đời di dân

Ngọc Lan

Tôi không phải là người hiểu nhiều về phim ảnh và cũng chưa bao giờ được xem những bộ phim ngắn chỉ giới hạn trong 7 phút, 17 phút hay dài hơn một chút thì vẫn chưa đến 30 phút. Chính vì vậy mà tôi đến với buổi chiếu phim mang chủ đề “It’s An Immigrant Life” (Tạm dịch: Cuộc Sống Của Dân Nhập Cư) vào ngày Thứ Sáu vừa qua tại Đại Hội Điện Ảnh Việt Nam Quốc Tế lần thứ 4 (Vietnamese International Film Festival - ViFF 2009) do Hội Văn Học Nghệ Thuật Việt Mỹ (VAALA) và Hội Ngôn Ngữ Văn Hóa Việt Nam (VNLC) thuộc trường đại học UCLA tổ chức tại viện bảo tàng Bowers, Santa Ana, ngoài một chút đồng cảm ở thân phận cũng là dân nhập cư đến đây chưa lâu, còn là do sự tò mò xem người ta có thể chuyển đến khán giả điều gì trong những bộ phim với ngần ấy thời gian. Và câu trả lời mà tôi nhận được vượt xa hẳn những gì tôi nghĩ.

Góc đời dân nhập cư

Ba bộ phim tôi muốn nói đến là “Người Rơm,” (7 phút, đạo diễn Lê Hải, Anh), “A Summer Rain” (Cơn Mưa Mùa Hè, 17 phút, đạo diễn Ela Their, Mỹ) và “Delivery Day” (Ngày Giao Hàng, 26 phút, đạo diễn Jane Manning, Úc). Rất tiếc do vào hơi trễ nên tôi không xem được phim “Meet Friends, Swap Childhood.”

Bối cảnh của “Người Rơm” là hình ảnh những chàng trai, cô gái đang miệt mài “dũa” trong một tiệm nail mang tên “LasVegas” ở London, Anh, và một vài cảnh sinh hoạt đời thường của họ như một ván bài chưa biết “đường binh,” một buổi cơm chiều đông đúc, một câu hát karaoke gợi nhớ quê nhà, một tối chụm nhau trước màn hình TV xem chung kết cuộc thi hoa hậu Việt Nam.

Trong khi đó, “A Summer Rain” nhẹ nhàng trôi qua trong câu chuyện của một cô bé 11 tuổi từ Israel theo cha mẹ đến định cư tại Mỹ vào thập niên 1980. Qua những lá thư gởi về cho người bạn thân nơi quê nhà, cô bé thể hiện những cảm nhận về cuộc sống mới trên một đất nước có nền văn hóa khác xa quê hương cô. Những bỡ ngỡ, những khó khăn để hội nhập, cũng như nỗi nhớ nhà da diết mà cô chỉ biết làm dịu đi qua việc mỗi ngày ngồi nơi thềm nhà ngóng người đưa thư và tự hỏi, không biết hôm nay họ có mang đến cho cô những lá thư hồi âm từ người bạn. Trong nỗi nhớ quê nhà quay quắt đó, cô bé Israel tìm được sự đồng cảm qua ánh mắt một cô bé hàng xóm người Việt, cũng trạc tuổi cô, cũng là dân mới nhập cư như cô, và cũng có nỗi buồn như cô, nỗi buồn của những di dân lạc loài!

Dài hơi hơn hai bộ phim trên, trong khoảng thời gian 26 phút, bộ phim “Delivery Day” lại là những cảm nhận về cuộc sống của hai thế hệ dân nhập cư ở Úc qua lăng kính của bé Trang. “Ngày Giao Hàng” là một ngày mà bé Trang phải cần có mẹ đến trường để dự buổi phỏng vấn giữa giáo viên và phụ huynh nhưng lại cũng rơi vào ngày mà những món hàng may gia công phải được giao gấp theo yêu cầu của chủ. Trong hoàn cảnh như vậy, dù muốn dù không, bé Trang và anh trai mình phải nghe lời mẹ nghỉ học ở nhà để phụ mẹ và cậu đóng hàng, giao hàng.

Đồng cảm và chia sẻ

Thực sự tôi đã không hề nghĩ rằng mình lại xúc động đến như vậy khi xem phim. Tôi không chỉ thấy rõ ràng hình ảnh gia đình tôi, bạn bè tôi và chính bản thân tôi trong những bộ phim đó mà còn có cả sự giống nhau ở những tâm tư, những tình cảm, những nỗi vui buồn qua những con người - những nhân vật quá gần gũi với cuộc sống thường nhật của mình.

Hình ảnh cô bé Israel mỗi ngày ngồi trước cửa nhà ngóng chờ người đưa thư trong khu phố vắng lặng khiến tôi nhớ đến má tôi, từ một xóm chợ đông đúc ở Sài Gòn đến một con phố vắng hiếm người qua lại trên đất Mỹ, không người trò chuyện bởi vì không hiểu ngôn ngữ của người Mỹ. Niềm vui mỗi ngày của má tôi cũng là những lúc đứng rửa chén bát nơi cửa sổ ngó ra đường, để được ngắm một cụ già mỗi ngày lặng lẽ đi bộ ngang qua nhà, để được là người đầu tiên nhìn thấy người đưa thư rồi vội chạy ra xem có lá thư nào cho mình không. Đó cũng là những chiều cùng ba tôi ngồi ngoài cầu thang của một khu chung cư để mông lung nhớ về Sài Gòn, để suy nghĩ những đắng cay cơ cực của buổi đầu lập nghiệp trên xứ người.

Tôi như nhìn thấy ánh buồn câm nín của con gái tôi, của những đứa cháu tôi, qua hình ảnh cô bé đứng bên cửa sổ nhìn mưa rơi tí tách trong đêm, vừa miên man thì thầm trò chuyện với những bè bạn nơi quê nhà trong tâm tưởng vừa nghe văng vẳng tiếng cãi vã của ba mẹ bởi vì những nhọc nhằn trong cuộc mưu sinh. Vang lên trong đêm còn có tiếng chì tiếng bấc của đôi vợ chồng Việt Nam nhà hàng xóm mới đến. “Cơn Mưa Mùa Hè” đó, những tiếng than thân trách phận bởi cuộc sống khắc nghiệt đó, đều là những “điều lạ” mà không phải ai cũng lường trước, khi đặt chân đến mảnh đất được gọi là thiên đường.

Hình ảnh những người phụ nữ gò lưng trên những chiếc máy may, cặm cụi, miệt mài trong “Delivery Day” cũng quá gần gũi với tôi. Nó làm tôi nhớ hình ảnh anh em tôi trong suốt nhiều năm trời cứ mỗi sớm thức dậy đã vội vàng ngồi ngay vào máy, cặm cụi may, may và may, lúc ngẩng đầu nhìn đồng hồ thì đã tới giờ đến trường. Chúng tôi lại buông máy lao đi, cũng trong bộ quần áo còn đầy bụi chỉ. Tan học về lại cũng chỉ nhìn thấy chiếc máy may.

Rồi cũng như trong bộ phim đó, khi một cú điện thoại từ chủ hàng gọi lại báo hàng bị lỗi, may sai, ủi cháy, lại phải lo cắm đầu gò lưng làm liền lô hàng khác để đền, sao cũng quá giống với chúng tôi đến thế. Làm sao quên được khi mà mấy anh em vừa vội vội vàng vàng tính đến trường cho kịp giờ học thì bị gọi ngược lại và được bảo: “Nghỉ học ở nhà tháo đồ, sửa!” Má tôi vừa tháo vừa khóc, anh tôi an ủi má mà cũng ngậm ngùi: “Biết cực đến mức này thì mình đâu có đi làm chi hả má!” Ba và mấy đứa em gái còn biết cách nào hơn là liền chân đạp, liền tay kéo cho kịp thời gian…

Tôi cứ thắt lòng khi nhìn hình ảnh bé Trang mới ngoài 10 tuổi, cặm cụi chăm chỉ phụ việc cùng mọi người và mong sao cho công việc hoàn tất để mẹ còn kịp đến trường dự buổi họp cho em. Thiên đường là đâu, tương lai cho em là đâu nếu như cuộc sống như vậy cứ mãi tiếp diễn?

Nhưng dẫu có nhọc nhằn như thế những người trong “A Summer Rain,” hay “Delivery Day,” vẫn là những người may mắn vì họ còn có thể hy vọng ở tương lai, hy vọng sau cơn mưa trời lại sáng, hay sau chuyến giao hàng này lại có thêm một cơ hội mới. Trong khi đó, “Người Rơm,” như chính tên gọi của bộ phim, là thân phận của những di dân Việt Nam bất hợp pháp đang sinh sống ở Châu Âu, mà cụ thể là ở London. Bộ phim như một video gia đình bắt đầu với hình ảnh một thanh niên ngoài 20 đang quét dọn tiệm nails. Tôi nhớ câu nhân vật đó nói: “Anh quay cho em cảnh này để gởi về Việt Nam để mọi người xem và có hỏi: ‘Thằng này sang Tây làm gì?’ Thì bảo là sang Tây để đi quét nhà.”

Vâng, câu nói nghe tưởng chừng như đùa nhưng lại là một sự thật, thật đến trần trụi. Họ mưu sinh bằng mọi nghề để có thể kiếm tiền gởi về quê nhà, để trả những món nợ vay mượn khi ra đi tìm một tương lai.

Nhưng “Người Rơm” không chỉ canh cánh trong lòng chuyện mưu sinh, mà đè nặng trong tâm tư họ là cuộc đời của những kẻ sống ngoài vòng pháp luật. Họ sống không cần tương lai, họ ví mình như những “người rơm” mà chỉ cần một mồi lửa là sẽ bị cháy trụi, ra tro tất cả. Vâng, cho dù có xây dựng một cơ nghiệp đàng hoàng bằng chính mồ hôi nước mắt, hay là bằng cả những hành động phạm pháp như buôn lậu, trồng cần sa…, thì một sớm mai kia, khi nhà chức trách hỏi thăm đến, họ cũng trắng tay vì họ đang sống một cuộc sống tạm bợ, ngoài rìa xã hội, và bất cứ lúc nào cũng có thể bị trục xuất về cố hương.

Tôi hình dung đến nhiều bạn bè và người quen cũng đang hiện diện quanh đây, cũng có cùng hoàn cảnh và tâm trạng như “Người Rơm.” “Biết cuộc sống tạm bợ là như vậy, nhưng sao vẫn cứ sống, sao không hồi hương?” Hỏi, nhưng thực ra là cũng có thể tự trả lời: “Bao nhiêu người ở Việt Nam sống ở quê nhà đang dựa vào những ‘Người Rơm’ nơi đây?” Đôi lúc người ta không chỉ sống chỉ vì chính bản thân mình, dù mình cũng chỉ như cọng rơm mong manh trước lửa. Nếu có sự lựa chọn, có ai tự chọn làm “Người Rơm”?

Những thông điệp

Dẫu cho tôi đã phải rơi nước mắt qua những bộ phim rất ngắn đó nhưng tôi cảm thấy vui khi bước chân ra khỏi phòng chiếu, khi nhớ đến nụ cười thân thiện của hai đứa bé Việt Nam và Israel ngồi sát lại gần nhau trong “A Summer Rain,” cũng như nụ cười của hai anh em Trang trong “Delivery Day” khi cùng nhau tung hứng quả bóng, tung đi hết những vất vả mưu sinh, chỉ giữ lại niềm vui nho nhỏ có được trong ngày.

Và tôi hiểu bằng những tình cảm trong sáng, hồn hậu, bằng một niềm chia sẻ và cảm thông đến vô cùng đó, những nhọc nhằn đắng cay của buổi đầu hội nhập và mưu sinh của những mảnh đời di dân rồi đây sẽ chỉ còn là kỷ niệm, khi mà mỗi chúng ta tự biết vươn lên, tự khẳng định chính mình, tự trả lời được cho mình câu hỏi “Vì sao ta có mặt nơi đây?” Mỹ, Úc, hay Anh… có là thiên đường thực sự hay không ngoài việc chính phủ các nước đó cho chúng ta một cơ hội, thì phần còn lại là chính chúng ta nắm giữ cơ hội đó như thế nào!

Cuối cùng, như đã nói từ đầu, tôi cảm nhận phim bằng cảm quan của một người thường. Với tôi, một bộ phim hay là bộ phim đã chạm được những ngóc ngách đời thường nhất mà ai cũng dễ thấy mình hiện diện trong đó.

Ba bộ phim đã chạm sâu vào tâm thức tôi, chỉ để cuối cùng tôi cảm nhận được rằng những gì tôi nhận được nơi đây thật quý giá, cho dù trăm năm sau, tôi vẫn chỉ là một trong những di dân lạc loài. (N.L.)

Saturday, April 11, 2009

Entry for April 11, 2009

Ngày này -16 năm trước :p

....

Để hôm nay có được thế này :)

Ti tặng quà, Bi đọc tất cả lời chúc trên thiệp (đọc ro ro nhưng không biết có hiểu gì không, chỉ nhớ mỗi chuyện là đọc xong thì nhắc mẹ nhớ đưa cái bóp của Bi cho chị hai để chị hai lấy $10 tiền hùn mua quà cho ban mẹ :p)

hehehe

Saturday, April 4, 2009

Entry for April 05, 2009 Chạy trời không khỏi nắng

*Ở Việt Nam

Vì là:

- gia đình có công với ngụy

- có người đi vượt biên

- lý lịch không rõ ràng (?)

Cho nên:

- dù có khả năng chuyên môn

- có năng lực lãnh đạo

- có quá trình “cống hiến”

Nhưng vẫn… không được “bổ nhiệm”

Bởi lẽ: không xác định được “lập trường tư tưởng”!

*Chạy một hơi sang tận nửa vòng trái đất.

Tiếp tục bị xếp vào "thành phần có vấn đề"!

Dù rằng:

- có khả năng

- có trình độ

- có hiểu biết

Nhưng vì:

- là bạn của HTC

- thân thiết với VQHN

Cho nên suy ra kết luận rằng thì là: lập trường tư tưởng vẫn thuộc loại không rõ ràng!

*Ha!

Tui đang suy nghĩ có nên hoặc về VN làm đơn xin được xác nhận hồi đó tui không có xúi ba tui đi lính hay là ở đây kiếm tiền đăng bố cáo: “Tui - NTNL - xin không làm bạn với HTC và VQHN nữa!”