Wednesday, April 22, 2009

Entry for April 23, 2009 Last entry

Như một lời chia tay

Có lẽ đây là entry cuối cùng cho blog này.

Cũng không biết sao nữa, nhưng sẽ cho nó biến mất :p

Những bài vở cũ, giữ lại như một kỷ niệm, theo lời người bạn đã chuyển hết qua 360 Plus, nhưng chắc chắn đó sẽ không phải là nơi tui tiếp tục viết.

Lại nói như kiểu Nguyễn Bỉnh Khiêm:

"Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người đến chốn lao xao"

hehe, nghe ra rất "chảnh và láu cá", nhưng một phần bản chất của tui là vậy :p

Ừ, thì sẽ tìm một nơi vắng vẻ hơn và bắt chước như S "viết lại một profile khác cho đời mình." Hehehe, nghe cải lương quá nhưng cũng hay quá! Vậy thì cũng như khởi đầu của blog này, tui nghĩ những ai lại tìm đến với blog tui (nếu lại có :p) tức là tui có duyên với họ!

Hehe, đã bảo là sến thì sến cho trót: thế thì cám ơn tất cả mọi người đã dừng chân ở đây để tui luôn cảm thấy rằng nếu tôi trải lòng thì tôi sẽ nhận được sự chia sẻ và quanh tôi luôn có nhiều người dõi theo với những buồn vui của tôi.

Nếu ai đó bảo thế giới online là ảo thì có lẽ cũng đúng, bởi đến giờ này vẫn còn quá nhiều người tôi không biết là ai :p

Nhưng có điều với tôi thì là thật, ít ra là tên tôi là thật và những điều tôi viết là thật.

Cho nên bây giờ tôi nói rằng tôi sẽ cho blog này biến mất trong ít ngày tới thì cũng là thật, hehe

Chúc tất cả luôn tìm thấy sự bình an và niềm vui trong cuộc sống.

Mến,

NTNL

Entry for April 23, 2009 Last entry

Như một lời chia tay

Có lẽ đây là entry cuối cùng cho blog này.

Cũng không biết sao nữa, nhưng sẽ cho nó biến mất :p

Những bài vở cũ, giữ lại như một kỷ niệm, theo lời người bạn đã chuyển hết qua 360 Plus, nhưng chắc chắn đó sẽ không phải là nơi tui tiếp tục viết.

Lại nói như kiểu Nguyễn Bỉnh Khiêm:

"Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người đến chốn lao xao"

hehe, nghe ra rất "chảnh và láu cá", nhưng một phần bản chất của tui là vậy :p

Ừ, thì sẽ tìm một nơi vắng vẻ hơn và bắt chước như S "viết lại một profile khác cho đời mình." Hehehe, nghe cải lương quá nhưng cũng hay quá! Vậy thì cũng như khởi đầu của blog này, tui nghĩ những ai lại tìm đến với blog tui (nếu lại có :p) tức là tui có duyên với họ!

Hehe, đã bảo là sến thì sến cho trót: thế thì cám ơn tất cả mọi người đã dừng chân ở đây để tui luôn cảm thấy rằng nếu tôi trải lòng thì tôi sẽ nhận được sự chia sẻ và quanh tôi luôn có nhiều người dõi theo với những buồn vui của tôi.

Nếu ai đó bảo thế giới online là ảo thì có lẽ cũng đúng, bởi đến giờ này vẫn còn quá nhiều người tôi không biết là ai :p

Nhưng có điều với tôi thì là thật, ít ra là tên tôi là thật và những điều tôi viết là thật.

Cho nên bây giờ tôi nói rằng tôi sẽ cho blog này biến mất trong ít ngày tới thì cũng là thật, hehe

Chúc tất cả luôn tìm thấy sự bình an và niềm vui trong cuộc sống.

Mến,

NTNL

Tuesday, April 21, 2009

Entry for April 22, 2009

Ðang muốn đi xem phim "Bolinao 52" nhưng sợ...

Bolinao 52 - Sự cảm thông đến từ những người còn sống

(Bài trích từ báo NV)

Trong mỗi một con người đều có một địa danh để đến viếng thăm, với ai đó là Paris tráng lệ, là Roma uy nghi, hoặc thành Viên cổ kính... nhưng với chị Trịnh Thị Tùng, một thuyền nhân người Việt Nam, thì địa danh đó là Bolinao. Bolinao là thiên đường trên địa giới hay địa ngục của trần gian? Bolinao là một làng chài nhỏ ở Phillipines, ở nơi đó có tình người và chứa đầy sự cảm thông toàn vẹn.

“Bolinao 52” là một bộ phim kể về câu chuyện của những thuyền nhân tị nạn Việt Nam. Vào năm 1988, tại Bến Tre, miền Nam Việt Nam, có 110 người đã đào thoát khỏi Việt Nam trên một chiếc thuyền nhỏ bé, hướng ra biển khơi để bắt đầu chuyến hải hành đi tìm tự do, đi tìm nguồn sống mới. Ngay từ ngày đầu tiên trên biển họ đã gặp cơn bão lớn, người tài công quyết định ngưng máy và chờ cho cơn bão qua đi để tiếp tục chuyến hải hành.

Nhưng tắt rồi thì máy không bật lại được nữa. Và đó là sự khởi đầu bi thương của những định mệnh bị trôi dạt. Năm ngày, 10 ngày, rồi 19 ngày sau... Chị Tùng, người dẫn chuyện trong phim, kể lại câu chuyện bằng những ngôn từ mộc mạc, bình dân và chân thành: “Mọi người chết từ từ, mỗi ngày đều có người chết.” Chị nói về cái chết, về sự mất tích của những người đồng hành cách đây 17 năm như chính câu chuyện mới xảy ra hôm qua. Ra đi, họ hy vọng sẽ đến được bờ tự do nếu có sự cứu vớt, giúp đỡ... nhưng hy vọng đã quay lưng với họ.

Với quốc tế, tên gọi “Bolinao 52” (tức là chuyến tàu mang 52 người sống sót, tới được làng chài Bolinao) còn là biểu tượng của sự mệt mỏi của thế giới khi liên tục phải cưu mang người Việt Nam tỵ nạn. Một vị hạm trưởng Hải Quân Hoa Kỳ, chỉ huy chiến hạm USS Dubuque, đã bị đưa ra tòa án quân sự vì ông chỉ lệnh cho cung cấp đồ ăn và nước chứ không vớt những người tỵ nạn trên chiếc thuyền này - mặc dù vị hạm trưởng không hề nhận được phép vớt họ. Một kết quả bi thảm đã xảy ra. Lương thực cứu trợ đã hết, tàu bị ngập nước và đang chìm dần dần... những thuyền nhân đã bò đến bờ vực địa ngục của sự tuyệt vọng. Họ đã phạm phải một điều cấm kị kinh hãi khi phải tìm kiếm nguồn sống từ những miếng thịt của đồng loại. Vụ án “Bolinao 52” đã làm chấn động thế giới!

Không ai có thể lý giải được cuộc đời mình khi chính số phận của mình cũng không do chính mình định đoạt. Ðược sống, được cứu vớt, được cưu mang hay bị xua đuổi thậm chí phải bỏ cuộc. Chị Tùng cứ lặp lại câu nói “Mỗi người đều có số phận của nó” với một tâm trạng khắc khoải, như mong tìm lại một chút bình yên. Người sống, hay người đã chết đều mong muốn có một chút cảm thông. Sự cảm thông được đặt lên trên số phận.

Dân tộc Việt Nam ẩn chứa nhiều tiềm năng, trong đó tiềm năng giá trị nhất chính là sự chịu đựng khổ nhục và lụy phiền. Không chỉ riêng 52 con người trên chiếc tàu kia, mà còn rất nhiều thuyền nhân khác, đã sống sót và chấp nhận sự phiền lụy trong nỗi niềm câm lặng. Chị Trịnh Thanh Tùng, người sống sót, khi về thăm lại vùng đất ân nhân đã được những đàn bà người Phi trên đảo Bolinao gọi là “super woman”. Và với đạo diễn Ðức Nguyễn, chị Tùng thực sự là “super woman”, khi chị mạnh dạn nhận lời kể lại câu chuyện của chuyến hải hành đầy kinh hoàng đó.

Mang nỗi oan khuất của những người đồng hành xấu số, sự phẫn hận và thù ghét những trái tim của ý chí lạnh lùng... đã làm cho chị phiền lụy và đau khổ trong suốt 17 năm trời. Chị Tùng mặc dù đã ở bến bờ tự do, nhưng trong tâm khảm vẫn bị ràng buộc bởi những ám ảnh bi thương của chuyến tàu định mệnh.

Sự gặp gỡ giữa chị và người lính thủy trên chiến hạm USS Dubuque đã giải trừ nỗi phiền muộn, trăn trở hiểu lầm đến từ hai phía. Ðạo diễn Ðức Nguyễn đã cho họ gặp nhau, hàn gắn, để làm thanh thản và rửa lành những vết thương lòng sâu thẳm. Chị nói với người lính Mỹ: “It's OK now, I hope you don't feel bad like before.” Cả hai người đều khóc. Bolinao 52 đã làm cho người ta khóc. Khóc bởi vì họ là những con người.Trong mỗi con người chúng ta, khi rơi vào tình trạng tuyệt vọng và phải chịu nhận lãnh thảm họa thì ý chí sống bỗng trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. 52 con người sống sót trên chiếc thuyền đã có một sự chọn lựa đúng. Họ cần phải tát nước, họ cần phải ăn, vì họ cần phải sống.

Ðạo diễn Ðức Nguyễn đã không khai thác sự kiện Bolinao 52 như người ta đã khai thác trên khía cạnh rùng rợn, dã man gây chấn động. Ðức Nguyễn nói: “Tôi không muốn gợi lại sự hãi hùng mà là xoa dịu nỗi đau cho những người còn sống.”

Chị Trịnh Thị Tùng tìm về lại Bolinao, tìm lại quá khứ để cảm tạ những ân nhân. Chị tìm về lại Bolinao cũng để nhằm xoa dịu những nỗi đau của những người bạn đồng hành xấu số và quan trọng hơn là cho chính bản thân chị. Chị gặp lại người lính thủy xưa kia để hai bên xóa bỏ những mặc cảm hiểu lầm. Người sống tìm được sự cảm thông thì hy vọng người xấu số cũng ngậm cười nơi chín suối.

“Bolinao 52” là cuốn phim tài liệu không phê phán, tố cáo hay đòi quy trách nhiệm lên ai. Cuốn phim chỉ kể lại toàn bộ một chuyến hải hành của những thuyền nhân Việt Nam, với mong muốn tìm sự cảm thông đến từ nhiều phía.

Monday, April 20, 2009

Entry for April 20, 2009 Hình ảnh người em không đợi

Hình ảnh người em không đợi

Hoàng Thi Thơ

Ngày nào em đến
áo em màu trinh
áo xinh là xinh
áo em trong trời hồng
là gió là bướm là hoa
là mây chiều tà

Ngày nào em đến
nón em cầm tay
nón em màu mây
nón em sao thẹn thùng
kề tai để nói cùng anh
một câu chuyện lòng

Có bao giờ xóa nhòa
tà áo trắng
hình dáng người em
không ngóng chờ
một bài thơ đẹp thêm
tình duyên trên nón em

Để từ hôm ấy
nón em làm thơ
nón em đệt mơ
đã ghi trong cuộc đời
hình bóng người em
mà anh ngàn năm đợi chờ.

Sunday, April 19, 2009

Entry for April 20, 2009

Kinh thế suy thoái cũng có cái hay của nó!

Trước hết là người ta bớt ly dị đi, hehe (giảm tới 37%).

Biết lý do vì sao không?

Tại ly dị tốn tiền quá, hehehe. Kinh tế suy thoái nhưng luật sư không có discount (giảm giá) gì hết, cho nên muốn ly dị phải tốn ít nhất là $5,000, thậm chí có khi đến cả $100,000. Việc làm không có, nợ nần tùm lum thì còn đào đâu ra tiền mà ly dị chứ!

Mà như vậy thì cũng không có nghĩa là những ai đang độc thân thì cứ thích sống một mình cho khỏe đâu nghe! Hờ hờ

Patti Novak, chủ nhân của công ty mai mối Buffalo Niagara Introductions, ở Buffalo, New York, cho biết “Số vụ mai mối đưa đến hôn nhân đã tăng đến 30% trong 8 tháng qua.”

Biết sao không?

Vì càng chán cái mớ đời thì “người ta càng cần có nhau cho qua cái thời kỳ kinh tế khó khăn như hiện nay, chứ sống một mình thì thật là đau khổ... Hu hu. Dù gì thì hai người cùng ăn bắp rang và uống sữa với nhau cho đỡ đói vẫn vui hơn là gặm bắp rang và uống sữa côi cút một mình.”

Hehehe

Ðó, cái gì cũng có hay hay của nó là vậy đó!

Entry for April 20, 2009 Văn hóa cách biệt và cảm nhận khác biệt

Trích một đoạn trong bài viết cho một tờ báo (không phải NV :p)

Trích thôi, bởi không thì dài đọc oải quá, hehe!

ViFF và những điều còn đọng lại

Ngọc Lan

[...]

Văn hóa cách biệt và cảm nhận khác biệt

Thực sự, việc cảm nhận và đánh giá nội dung một bộ phim như thế nào là hay tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó vấn đề tác động của nền văn hóa và môi trường sống cũng như những trải nghiệm về cuộc sống riêng của mỗi cá nhân góp phần không nhỏ vào việc cảm thụ.

Ðối với một dân tộc thấm nhuần văn hóa Khổng Giáo phương Ðông và hiện nay đang sinh sống và phát triển trên một vùng đất màu mỡ của nền văn hóa Âu Mỹ đa dạng thì việc tìm được một sự đồng điệu đồng cảm đối với mỗi bộ phim là một điều không dễ dàng. Bởi nó thể hiện chiều sâu văn hóa, tâm linh cội nguồn mà mỗi người còn cất giữ cho riêng mình. Ðiều này có thể thấy rõ ràng qua việc khán giả bình chọn phim Babylift là bộ phim hay nhất dù đây là một phim tài liệu. Bởi đọng lại ở người xem, cho dù là khán giả Việt hay Mỹ, hay pha trộn giữa Việt và Mỹ chính là nỗi niềm: Trẻ thơ không có quyền lựa chọn thời điểm để được sinh ra nhưng lại là người phải chịu đựng, dự phần và trả giá cho những biến động lịch sử mà chúng vô tình bị ném vào. Những thương tổn trong kí ức, trong tình cảm - nếu có - của tuổi thơ chỉ có thể lành lặn và xóa nhòa trong sự nỗ lực tự vươn lên của mỗi cá nhân, bên cạnh tấm lòng và sự sẻ chia của những con người có trái tim vàng, như những người họ đã gặp trong phim.

Trong khi đó thì nội dung bộ phim “Trăng Nơi Ðáy Giếng” của đạo diễn Nguyễn Vinh Sơn đến từ đất Thần Kinh lại nhận được những phản hồi khác nhau. Với những người còn ảnh hưởng nhiều và hiểu rõ quan niệm “phu xướng phụ tùy,” hay việc tận tụy hy sinh vì chồng là thể hiện tình yêu, trách nhiệm và bổn phận của người vợ, người phụ nữ Việt Nam thì họ sẽ nhìn thấy và cảm thông với bi kịch của nhân vật Hạnh. Ngược lại, với những ai lớn lên và trưởng thành trong môi trường mà sự bình đẳng giữa nam và nữ được coi trọng, thì có lẽ họ sẽ “không thể nào chấp nhận và chịu được mẫu hình cá tính của nhân vật chính trong phim” bởi họ cho rằng “nó không thực.”

Và phải chăng, sự không thống nhất trong việc cảm nhận bộ phim cũng chính là những bằng chứng cụ thể và sinh động nhất về những xung đột tư tưởng giữa các thế hệ người Việt Nam đang sống trên đất Mỹ, thậm chí ngay cả ở những người trẻ trưởng thành trong nước và nơi đây?

Cho dẫu là gì đi nữa thì các bộ phim cũng đã góp phần đưa đến cho người xem nhiều diện mạo, nhiều sắc thái, nhiều vấn đề của một dân tộc nhỏ nhưng có quá nhiều những ẩn ức mà muốn hiểu được nó không thể chỉ là chuyện một sớm một chiều.

ViFF đã bế mạc, ngoài những kinh nghiệm được mất của những người tham gia mang tính chuyên nghiệp thì đâu đây, những câu chuyện về các bộ phim được trình chiếu, những băn khoăn về những cuộc đời, những số phận, những con người và cả những thắc mắc muốn tìm mua để sở hữu được những bộ phim đó của những khán giả bình thường chính là những phần thưởng dành cho ban tổ chức ViFF - những người gắn kết nhau không chỉ bởi niềm đam mê nghệ thuật mà cả bằng cái tâm trong sáng muốn đóng góp một chút sức mình trong việc khẳng định tiếng nói của người Việt Nam trên con đường hội nhập.

Friday, April 17, 2009

Entry for April 18, 2009

Hôm nay trong lúc buồn ngủ ngồi lượm lặt cóp nhặt được mấy câu thơ về “áo” hay nè (hehe, thực ra thì nhiều người đã biết, chỉ là gom lại thôi :P)

Em đến như mây, chẳng đợi kỳ,

Hương ngàn gió núi động hàng mi.

Tâm tư khép mở đôi tà áo,

Hò hẹn lâu rồi - Em nói đi !

(Tự tình dưới hoa - Ðinh Hùng)

Em đi áo mỏng buông hờn tủi

dòng lệ thơ ngây có dạt dào

(Ðôi Bờ - Quang Dũng)

Môi cười vết máu chưa se

cành hoa gạo cũ nằm nghe nắng hiền

Anh nằm nghe bước em lên

ngoài song lá động, trên thềm áo bay

(Khi Nàng Ðến - Trần Dạ Từ)

Mây cao, gót nhỏ, mây vào gót,

áo lụa trăng mềm bay xuống thơ

(Tám Phố Saigon - Nguyên Sa),

Có phải em mang trên áo bay

hai phần gió thổi, một phần mây?

Hay là em gói mây trong áo

rồi thở cho làn áo trắng bay?

(Tương Tư - Nguyên Sa)

Anh về giữa một dòng sông trắng

là áo sương mù hay áo em

(Paris có gì lạ không em?)

Áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc

Áo nàng xanh tôi mến lá sân trường

(Tuổi Mười Ba - Nguyên Sa)

Có phải mùa xuân sắp sửa về

hay là gió lạnh lúc đêm khuya?

hay là em chọn sai mầu áo

để nắng thu vàng giữa lối đi?

(Tương Tư - Nguyên Sa)

Ngày hành quân, anh đi về cánh rừng thưa

thấy sắc hoa tươi nên mơ mầu áo năm xưa

Kỷ niệm đầu len len trở về tâm tư

có mắt ai xanh thắm trong mộng mơ...

(Màu Kỷ Niệm - Phạm Ðình Chương)

Áo em tím cả phương này

anh nghe thành phố đêm nay trở buồn

(Áo Tím - Vũ Thành)

Áo em vạt tím ngàn sim

nửa nao nức gọi, nửa im lặng chờ

Yêu nhau từ độ bao giờ

gặp đây giả bộ hững hờ khói bay

(Ðộng Hoa Vàng - Phạm Thiên Thư)

“Thế giới của anh không có chân trời

không có mùa xuân lấy đâu hoa bướm

không có bàn tay cho bàn tay hò hẹn

áo tím qua cầu nên cũng hết mùa thu

(Thế giới của anh - Trang Châu)

Biển dâu sực tỉnh giang hà

còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh

(Áo Xanh - Bùi Giáng)

Thursday, April 16, 2009

Entry for April 16, 2009 Công việc của tôi (1)

Thấy người ta nói chuyện thất nghiệp hà rầm, tự dưng lại nhớ đến những công việc mà mình đã trải qua kể từ khi đặt chân đến đây.

Việc thứ nhất: Telemarketing

Tui có được việc làm này sau khi đến Mỹ được 3 tuần.

Khi ấy tui còn chưa biết công việc đó là cái gì. Tui chỉ đọc báo và thấy điều kiện người ta cần tuyển phù hợp với mình thế là tui gọi điện tới.

Chiều thứ sáu chị dâu chở tui đến đó để điền hồ sơ. Thực tình là tui còn không biết điền cái gì là cái gì, toàn tiếng Anh lạ quắc! May là có chị tui. Ông quản lí kêu thứ hai đến training từ lúc 12h trưa và 3h chiều sẽ làm chính thức. Công việc làm từ 3h đến 8:30, từ thứ hai đến thứ sáu. Còn nhớ ổng nói: giờ làm việc như vậy sẽ dễ dàng cho con đi học tiếp!

Đó là một hãng điện thoại đường dài gọi đi các tiểu bang và quốc tế. Công việc đại loại là người ta sẽ đưa cho tui 1 cái danh sách có họ tên và số điện thoại của nhiều người nằm trên khắp nước Mỹ. Nhiệm vụ của tui là sẽ gọi đến những số điện thoại đó để mời người ta vào đường dây điện thoại viễn liên của hãng…

Cùng vào đợt đó với tui còn có 5 người khác.

Sau khi training 3 tiếng thì một người lặng lẽ ra về.

Sau 2 ngày làm việc thì nhóm tui còn lại 2 người.

Và sau 2 tuần thì chỉ còn có tui!

Công việc nghe có vẻ rất nhẹ nhàng nhưng thực ra là… kinh khủng!

Cứ hãy hình dung là mình gọi cho một người không hề quen biết, và phải nói như thế nào để thuyết phục người ta tin để mà ghi tên vào. Mà ở cái xứ này thì nhiều người đã được cảnh báo trước với các cuộc gọi quảng cáo, cho nên có khi mình vừa mở miệng là họ cúp máy cái rụp; lịch sự hơn thì chờ mình nói vài câu rồi họ nhẹ nhàng từ chối; dữ dằn hơn thì họ chửi một câu tục tĩu rồi cúp máy (may là lúc đó tui hoàn toàn không hiểu câu đó là gì nên cũng coi như không!). Cho nên để có thể giữ người ta tiếp tục cuộc trò chuyện với mình trên đường dây điện thoại khoảng 20, 30 phút là cả một nghệ thuật!

Rồi chưa kể, gọi đến những nhà mà người ta nói tiếng Mỹ nhiều hơn tiếng Việt, hay cả những câu những chữ rất thông thường mà bây giờ thì với tui cũng là quen thuộc, nhưng với 1 đứa vừa mới đến Mỹ có 3, 4 tuần thì… cứ như vịt nghe sấm.

Khi người ta đồng í với các điều kiện của hãng rồi thì lại đến khâu kỹ thuật là phải cho thâu lại toàn bộ thông tin cá nhân của người đó bằng cách chỉ họ trả lời những câu hỏi trong máy ghi âm. Mà có những người lớn tuổi họ không biết rõ thì mình cứ như là nhắc tuồng: à, khi nào nghe đến chữ đó, chữ đó thì cô/chú sẽ nói cái gì bla bla bla. Đôi khi làm đi làm lại hoài không xong, oải quá người ta cũng đành bỏ cuộc (mà người ta không bỏ thì mình cũng tìm cách cho họ bỏ để còn gọi tìm khách hàng khác!)

Rồi lại đến cái màn đọc địa chỉ nhà nữa mới ghê. Đã nói là tui như một đứa từ trên trời rơi xuống vùng đất lạ, chưa phân biệt được họ nói avenue (Ave.), boulevard (Blvd.), street (St.), circle (Cr.), hay drive (Dr.) hay space (SPC) hay number (#) là nghĩa làm sao hết chứ đừng nói chi là họ nói nhanh cái tên đường, tên thành phố… Tui không biết cái gì hết, lại phải tìm cách năn nỉ hay nói sao cho người ta đánh vần lại dùm.

Nói chung là bây giờ thì những cái đó không là chuyện nhưng vào lúc ấy thì muốn khóc với nó.

Cứ hình dung là để tuyển người làm cho ca chiều như tui, thì tuần nào họ cũng tuyển, vậy mà có lúc suốt gần cả 1 tuần, chỉ có mỗi 1 mình tui làm, thì đủ thấy áp lực của công việc tưởng như nhẹ nhàng đó khủng khiếp ra sao!

Vậy mà tui làm rất ok! Khi đó lương tối thiểu của tiểu bang là $6.75/giờ, những người đi làm nhà hàng Việt Nam lãnh tiền mặt thì tính ra chỉ khoảng hơn $4/giờ. Vậy mà lúc ấy tui được trả khoảng $14/giờ - đó là số không nhỏ cho 1 đứa mới tinh như tui.

Có những lúc, tui còn là người huấn luyện tự nguyện cho những người mới đến nữa, chỉ họ từng chút một, kể cả cái cách làm sao mà “dụ khị” được khách hàng - đương nhiên điều đó còn tùy thuộc vào khiếu nói chuyện! Cho nên mọi người khoái tui lắm! hehe

Tui nhớ hoài người khách hàng đầu tiên của tui là hai vợ chồng một bác ở New York. Lúc “verify” xong xuôi hết mọi chuyện, bác đó mới hỏi: con qua đây lâu chưa? - dạ cũng 3 tháng rồi ạ. - Trời, mới 3 tháng mà sao giỏi vậy, dám đi làm công việc này! (Tui nói trong bụng: trời, nếu lúc đó tui nói thiệt là “con mới ở đây có 3 tuần thôi” thì bác ấy sẽ nói sao đây?). Mà ngay cả những người làm chung khi nghe là tui mới sang thì ai cũng tỏ vẻ không tin! WHY? hahaha

Có rất nhiều chuyện vui buồn trong thời gian tui làm công việc này. Nói đúng hơn cũng trong những cuộc gọi đó, tui đã có dịp nói chuyện với nhiều trường hợp rất lạ, mà đã có lần tui viết trong bài “Lộn số.”

Với công việc đầu tiên này tui có được 1 vài người bạn đáng mến. Đó là Dự - 1 cậu bé người Việt gốc Hoa, khi ấy cũng đã ở Mỹ khoảng 3 năm. Buổi sáng Dự đi học college, chiều đi làm ở đó. Dự vào sau tui khoảng 1 tuần. Tui cũng chỉ dẫn cho Dự những gì mình biết. Khi biết tui không có xe, Dự bảo: để em ghé chở chị đi làm luôn!

Sau biết là Dự phải đi vòng ngược đường rất xa, tui cảm thấy áy náy, nhưng Dự vẫn cứ tình nguyện xuống chở, đưa tiền xăng cũng không lấy!

Rồi kế nữa là Trang. Khi ấy Trang đang theo học Nurse ở trường mà tui đang học bây giờ. Cả Trang và Dự đều mới ngoài 20 thôi. Trang qua Mỹ từ lúc học lớp 7, nên tiếng Anh đương nhiên là giỏi rồi. Có hôm cuối tuần, Trang hẹn qua rủ tui và Dự đi ăn uống. Rồi khi Dự nghỉ việc thì Trang lại là đứa tình nguyện đến chở tui đi làm.

Làm được hơn 2 tháng, tuy kiếm nhiều tiền nhưng tui bị stress liên tục, thế là tui quyết định nghỉ việc.

Vẫn nhớ cả 2 người supervisor khi ấy đều gọi điện đến bảo: khi nào thích thì cứ quay lại, họ sẵn sàng nhận (bởi tui làm giỏi mà :p).

Nghỉ ở nhà 1 tuần, tui lại cầm báo tìm việc khác. Thấy có một nơi ghi “cần tuyển RN,” thế là tui lại nói với chị dâu chở tui đến xin việc.

Đến đó cũng là một buổi chiều. Gặp manager là một chị VN còn rất trẻ, cỡ tui thôi. Hỏi thấy ở đây cần tuyển “receptionist” phải không chị? – Không, chúng tôi đâu có tuyển receptionist, ở đây đang cần y tá thôi - Ủa, em đọc báo thấy vậy mà. Chị đó tỏ vẻ hơi ngạc nhiên. Nhưng khi ấy thì chị dâu tui lại bắt qua chuyện hỏi ở đó tuyển y tá thì như thế nào bla bla bla…

Sau đó về nhà tui mới biết chữ RN là viết tắt của “Registered Nurse” (y tá) mà tui lại đọc ba chớp ba nháng sao ra là “receptionist” (tiếp tân) không biết.

Vậy mà tui lại có việc làm ở đó! Hehe

Hôm khác kể tiếp.

Monday, April 13, 2009

Entry for April 13, 2009

Vừa mới dự bế mạc Liên Hoan Phim Việt Nam Quốc Tế lần 4.

Hehe, số tui đã nói là số hên mà! Hơn 60 bộ phim được chọn trình chiếu trong suốt thời gian liên hoan, tui chỉ xem có 5 phim, thì trong đó đã có 3 phim đoạt giải, kaka, mà cả 3 phim đó tui cũng đều có viết bài cảm nhận rồi, tatatata

Thôi, bây giờ mệt lắm rồi, đi ngủ đây. Ngày mai sẽ viết tiếp.

hehe, bắt chước người ta bon chen, sau khi phỏng vấn họ rồi thì chộp hình luôn, tatata

IMG_1536 by you.

với đạo diễn Minh Ngọc

IMG_1541 by you.
với Vũ Quí Hạo Nhiên (left) và đạo diễn Bùi Thạc Chuyên (right)

Sunday, April 12, 2009

Entry for April 13, 2009 đời di dân

Tùy bút

Từ những phim rất ngắn tại ViFF 2009, nhớ về đời di dân

Ngọc Lan

Tôi không phải là người hiểu nhiều về phim ảnh và cũng chưa bao giờ được xem những bộ phim ngắn chỉ giới hạn trong 7 phút, 17 phút hay dài hơn một chút thì vẫn chưa đến 30 phút. Chính vì vậy mà tôi đến với buổi chiếu phim mang chủ đề “It’s An Immigrant Life” (Tạm dịch: Cuộc Sống Của Dân Nhập Cư) vào ngày Thứ Sáu vừa qua tại Đại Hội Điện Ảnh Việt Nam Quốc Tế lần thứ 4 (Vietnamese International Film Festival - ViFF 2009) do Hội Văn Học Nghệ Thuật Việt Mỹ (VAALA) và Hội Ngôn Ngữ Văn Hóa Việt Nam (VNLC) thuộc trường đại học UCLA tổ chức tại viện bảo tàng Bowers, Santa Ana, ngoài một chút đồng cảm ở thân phận cũng là dân nhập cư đến đây chưa lâu, còn là do sự tò mò xem người ta có thể chuyển đến khán giả điều gì trong những bộ phim với ngần ấy thời gian. Và câu trả lời mà tôi nhận được vượt xa hẳn những gì tôi nghĩ.

Góc đời dân nhập cư

Ba bộ phim tôi muốn nói đến là “Người Rơm,” (7 phút, đạo diễn Lê Hải, Anh), “A Summer Rain” (Cơn Mưa Mùa Hè, 17 phút, đạo diễn Ela Their, Mỹ) và “Delivery Day” (Ngày Giao Hàng, 26 phút, đạo diễn Jane Manning, Úc). Rất tiếc do vào hơi trễ nên tôi không xem được phim “Meet Friends, Swap Childhood.”

Bối cảnh của “Người Rơm” là hình ảnh những chàng trai, cô gái đang miệt mài “dũa” trong một tiệm nail mang tên “LasVegas” ở London, Anh, và một vài cảnh sinh hoạt đời thường của họ như một ván bài chưa biết “đường binh,” một buổi cơm chiều đông đúc, một câu hát karaoke gợi nhớ quê nhà, một tối chụm nhau trước màn hình TV xem chung kết cuộc thi hoa hậu Việt Nam.

Trong khi đó, “A Summer Rain” nhẹ nhàng trôi qua trong câu chuyện của một cô bé 11 tuổi từ Israel theo cha mẹ đến định cư tại Mỹ vào thập niên 1980. Qua những lá thư gởi về cho người bạn thân nơi quê nhà, cô bé thể hiện những cảm nhận về cuộc sống mới trên một đất nước có nền văn hóa khác xa quê hương cô. Những bỡ ngỡ, những khó khăn để hội nhập, cũng như nỗi nhớ nhà da diết mà cô chỉ biết làm dịu đi qua việc mỗi ngày ngồi nơi thềm nhà ngóng người đưa thư và tự hỏi, không biết hôm nay họ có mang đến cho cô những lá thư hồi âm từ người bạn. Trong nỗi nhớ quê nhà quay quắt đó, cô bé Israel tìm được sự đồng cảm qua ánh mắt một cô bé hàng xóm người Việt, cũng trạc tuổi cô, cũng là dân mới nhập cư như cô, và cũng có nỗi buồn như cô, nỗi buồn của những di dân lạc loài!

Dài hơi hơn hai bộ phim trên, trong khoảng thời gian 26 phút, bộ phim “Delivery Day” lại là những cảm nhận về cuộc sống của hai thế hệ dân nhập cư ở Úc qua lăng kính của bé Trang. “Ngày Giao Hàng” là một ngày mà bé Trang phải cần có mẹ đến trường để dự buổi phỏng vấn giữa giáo viên và phụ huynh nhưng lại cũng rơi vào ngày mà những món hàng may gia công phải được giao gấp theo yêu cầu của chủ. Trong hoàn cảnh như vậy, dù muốn dù không, bé Trang và anh trai mình phải nghe lời mẹ nghỉ học ở nhà để phụ mẹ và cậu đóng hàng, giao hàng.

Đồng cảm và chia sẻ

Thực sự tôi đã không hề nghĩ rằng mình lại xúc động đến như vậy khi xem phim. Tôi không chỉ thấy rõ ràng hình ảnh gia đình tôi, bạn bè tôi và chính bản thân tôi trong những bộ phim đó mà còn có cả sự giống nhau ở những tâm tư, những tình cảm, những nỗi vui buồn qua những con người - những nhân vật quá gần gũi với cuộc sống thường nhật của mình.

Hình ảnh cô bé Israel mỗi ngày ngồi trước cửa nhà ngóng chờ người đưa thư trong khu phố vắng lặng khiến tôi nhớ đến má tôi, từ một xóm chợ đông đúc ở Sài Gòn đến một con phố vắng hiếm người qua lại trên đất Mỹ, không người trò chuyện bởi vì không hiểu ngôn ngữ của người Mỹ. Niềm vui mỗi ngày của má tôi cũng là những lúc đứng rửa chén bát nơi cửa sổ ngó ra đường, để được ngắm một cụ già mỗi ngày lặng lẽ đi bộ ngang qua nhà, để được là người đầu tiên nhìn thấy người đưa thư rồi vội chạy ra xem có lá thư nào cho mình không. Đó cũng là những chiều cùng ba tôi ngồi ngoài cầu thang của một khu chung cư để mông lung nhớ về Sài Gòn, để suy nghĩ những đắng cay cơ cực của buổi đầu lập nghiệp trên xứ người.

Tôi như nhìn thấy ánh buồn câm nín của con gái tôi, của những đứa cháu tôi, qua hình ảnh cô bé đứng bên cửa sổ nhìn mưa rơi tí tách trong đêm, vừa miên man thì thầm trò chuyện với những bè bạn nơi quê nhà trong tâm tưởng vừa nghe văng vẳng tiếng cãi vã của ba mẹ bởi vì những nhọc nhằn trong cuộc mưu sinh. Vang lên trong đêm còn có tiếng chì tiếng bấc của đôi vợ chồng Việt Nam nhà hàng xóm mới đến. “Cơn Mưa Mùa Hè” đó, những tiếng than thân trách phận bởi cuộc sống khắc nghiệt đó, đều là những “điều lạ” mà không phải ai cũng lường trước, khi đặt chân đến mảnh đất được gọi là thiên đường.

Hình ảnh những người phụ nữ gò lưng trên những chiếc máy may, cặm cụi, miệt mài trong “Delivery Day” cũng quá gần gũi với tôi. Nó làm tôi nhớ hình ảnh anh em tôi trong suốt nhiều năm trời cứ mỗi sớm thức dậy đã vội vàng ngồi ngay vào máy, cặm cụi may, may và may, lúc ngẩng đầu nhìn đồng hồ thì đã tới giờ đến trường. Chúng tôi lại buông máy lao đi, cũng trong bộ quần áo còn đầy bụi chỉ. Tan học về lại cũng chỉ nhìn thấy chiếc máy may.

Rồi cũng như trong bộ phim đó, khi một cú điện thoại từ chủ hàng gọi lại báo hàng bị lỗi, may sai, ủi cháy, lại phải lo cắm đầu gò lưng làm liền lô hàng khác để đền, sao cũng quá giống với chúng tôi đến thế. Làm sao quên được khi mà mấy anh em vừa vội vội vàng vàng tính đến trường cho kịp giờ học thì bị gọi ngược lại và được bảo: “Nghỉ học ở nhà tháo đồ, sửa!” Má tôi vừa tháo vừa khóc, anh tôi an ủi má mà cũng ngậm ngùi: “Biết cực đến mức này thì mình đâu có đi làm chi hả má!” Ba và mấy đứa em gái còn biết cách nào hơn là liền chân đạp, liền tay kéo cho kịp thời gian…

Tôi cứ thắt lòng khi nhìn hình ảnh bé Trang mới ngoài 10 tuổi, cặm cụi chăm chỉ phụ việc cùng mọi người và mong sao cho công việc hoàn tất để mẹ còn kịp đến trường dự buổi họp cho em. Thiên đường là đâu, tương lai cho em là đâu nếu như cuộc sống như vậy cứ mãi tiếp diễn?

Nhưng dẫu có nhọc nhằn như thế những người trong “A Summer Rain,” hay “Delivery Day,” vẫn là những người may mắn vì họ còn có thể hy vọng ở tương lai, hy vọng sau cơn mưa trời lại sáng, hay sau chuyến giao hàng này lại có thêm một cơ hội mới. Trong khi đó, “Người Rơm,” như chính tên gọi của bộ phim, là thân phận của những di dân Việt Nam bất hợp pháp đang sinh sống ở Châu Âu, mà cụ thể là ở London. Bộ phim như một video gia đình bắt đầu với hình ảnh một thanh niên ngoài 20 đang quét dọn tiệm nails. Tôi nhớ câu nhân vật đó nói: “Anh quay cho em cảnh này để gởi về Việt Nam để mọi người xem và có hỏi: ‘Thằng này sang Tây làm gì?’ Thì bảo là sang Tây để đi quét nhà.”

Vâng, câu nói nghe tưởng chừng như đùa nhưng lại là một sự thật, thật đến trần trụi. Họ mưu sinh bằng mọi nghề để có thể kiếm tiền gởi về quê nhà, để trả những món nợ vay mượn khi ra đi tìm một tương lai.

Nhưng “Người Rơm” không chỉ canh cánh trong lòng chuyện mưu sinh, mà đè nặng trong tâm tư họ là cuộc đời của những kẻ sống ngoài vòng pháp luật. Họ sống không cần tương lai, họ ví mình như những “người rơm” mà chỉ cần một mồi lửa là sẽ bị cháy trụi, ra tro tất cả. Vâng, cho dù có xây dựng một cơ nghiệp đàng hoàng bằng chính mồ hôi nước mắt, hay là bằng cả những hành động phạm pháp như buôn lậu, trồng cần sa…, thì một sớm mai kia, khi nhà chức trách hỏi thăm đến, họ cũng trắng tay vì họ đang sống một cuộc sống tạm bợ, ngoài rìa xã hội, và bất cứ lúc nào cũng có thể bị trục xuất về cố hương.

Tôi hình dung đến nhiều bạn bè và người quen cũng đang hiện diện quanh đây, cũng có cùng hoàn cảnh và tâm trạng như “Người Rơm.” “Biết cuộc sống tạm bợ là như vậy, nhưng sao vẫn cứ sống, sao không hồi hương?” Hỏi, nhưng thực ra là cũng có thể tự trả lời: “Bao nhiêu người ở Việt Nam sống ở quê nhà đang dựa vào những ‘Người Rơm’ nơi đây?” Đôi lúc người ta không chỉ sống chỉ vì chính bản thân mình, dù mình cũng chỉ như cọng rơm mong manh trước lửa. Nếu có sự lựa chọn, có ai tự chọn làm “Người Rơm”?

Những thông điệp

Dẫu cho tôi đã phải rơi nước mắt qua những bộ phim rất ngắn đó nhưng tôi cảm thấy vui khi bước chân ra khỏi phòng chiếu, khi nhớ đến nụ cười thân thiện của hai đứa bé Việt Nam và Israel ngồi sát lại gần nhau trong “A Summer Rain,” cũng như nụ cười của hai anh em Trang trong “Delivery Day” khi cùng nhau tung hứng quả bóng, tung đi hết những vất vả mưu sinh, chỉ giữ lại niềm vui nho nhỏ có được trong ngày.

Và tôi hiểu bằng những tình cảm trong sáng, hồn hậu, bằng một niềm chia sẻ và cảm thông đến vô cùng đó, những nhọc nhằn đắng cay của buổi đầu hội nhập và mưu sinh của những mảnh đời di dân rồi đây sẽ chỉ còn là kỷ niệm, khi mà mỗi chúng ta tự biết vươn lên, tự khẳng định chính mình, tự trả lời được cho mình câu hỏi “Vì sao ta có mặt nơi đây?” Mỹ, Úc, hay Anh… có là thiên đường thực sự hay không ngoài việc chính phủ các nước đó cho chúng ta một cơ hội, thì phần còn lại là chính chúng ta nắm giữ cơ hội đó như thế nào!

Cuối cùng, như đã nói từ đầu, tôi cảm nhận phim bằng cảm quan của một người thường. Với tôi, một bộ phim hay là bộ phim đã chạm được những ngóc ngách đời thường nhất mà ai cũng dễ thấy mình hiện diện trong đó.

Ba bộ phim đã chạm sâu vào tâm thức tôi, chỉ để cuối cùng tôi cảm nhận được rằng những gì tôi nhận được nơi đây thật quý giá, cho dù trăm năm sau, tôi vẫn chỉ là một trong những di dân lạc loài. (N.L.)

Saturday, April 11, 2009

Entry for April 11, 2009

Ngày này -16 năm trước :p

....

Để hôm nay có được thế này :)

Ti tặng quà, Bi đọc tất cả lời chúc trên thiệp (đọc ro ro nhưng không biết có hiểu gì không, chỉ nhớ mỗi chuyện là đọc xong thì nhắc mẹ nhớ đưa cái bóp của Bi cho chị hai để chị hai lấy $10 tiền hùn mua quà cho ban mẹ :p)

hehehe

Saturday, April 4, 2009

Entry for April 05, 2009 Chạy trời không khỏi nắng

*Ở Việt Nam

Vì là:

- gia đình có công với ngụy

- có người đi vượt biên

- lý lịch không rõ ràng (?)

Cho nên:

- dù có khả năng chuyên môn

- có năng lực lãnh đạo

- có quá trình “cống hiến”

Nhưng vẫn… không được “bổ nhiệm”

Bởi lẽ: không xác định được “lập trường tư tưởng”!

*Chạy một hơi sang tận nửa vòng trái đất.

Tiếp tục bị xếp vào "thành phần có vấn đề"!

Dù rằng:

- có khả năng

- có trình độ

- có hiểu biết

Nhưng vì:

- là bạn của HTC

- thân thiết với VQHN

Cho nên suy ra kết luận rằng thì là: lập trường tư tưởng vẫn thuộc loại không rõ ràng!

*Ha!

Tui đang suy nghĩ có nên hoặc về VN làm đơn xin được xác nhận hồi đó tui không có xúi ba tui đi lính hay là ở đây kiếm tiền đăng bố cáo: “Tui - NTNL - xin không làm bạn với HTC và VQHN nữa!”

Entry for April 05, 2009




Ảnh lấy từ blog “Thạch Lão Gia” (không có quen, hehe)

Chiếc lá đầu tiên

Hoàng Nhuận Cầm

Em thấy không, tất cả đã xa rồi

Trong tiếng thở của thời gian rất khẽ

Tuổi thơ kia ra đi cao ngạo thế

Hoa súng tím vào trong mắt lắm mê say!

Chùm phượng hồng yêu dấu ấy rời tay

Tiếng ve trong veo xé đôi hồ nước

Con ve tiên tri vô tâm báo trước

Có lẽ một người cũng bắt đầu yêu...

Muốn nói bao nhiêu, muốn khóc bao nhiêu

Bài hát đầu xin hát về trường cũ

Một lớp học bâng khuâng màu xanh rũ

Sân trường đêm - Rụng xuống trái bàng đêm

Nỗi nhớ đầu anh nhớ về em

Nỗi nhớ trong tim em nhớ về với mẹ

Nỗi nhớ chẳng bao giờ nhớ thế

Bạn có nhớ trường, nhớ lớp, nhớ tên tôi

“- Có một nàng Bạch Tuyết các bạn ơi!

Với lại bảy chú lùn rất quấy”

“- Mười đấy chứ!

Nhìn xem trong lớp ấy”

(Ôi những trận cười trong sáng đó lao xao)

Những chuyện năm nao, những chuyện năm nào

Cứ xúc động, cứ xôn xao biết mấy

Mùa hoa mơ rồi đến mùa phượng cháy

Trên trán thầy, tóc chớ bạc thêm

Thôi hết thời bím tóc trắng ngủ quên

Hết thời cầm dao khắc lăng nhăng lên bàn ghế cũ

Quả đã ngọt, trên mấy cành đu đủ

Hoa đã vàng, hoa mướp của ta ơi!

Em đã yêu anh, anh đã xa vời

Cây bàng hẹn hò chia tay vẫy mãi

Anh nhớ quá!

Mà chỉ lo ngoảnh lại

Không thấy trên sân trường- chiếc lá buổi đầu tiên.

Friday, April 3, 2009

Entry for April 04, 2009 Những Đứa Trẻ Thất Lạc

Tối qua đi xem phim “Operation Babylift: The Lost Children of Vietnam” nằm trong chương trình Liên hoan phim Việt Nam quốc tế lần thứ 4.

Đây là một phim tài liệu do Tammy Nguyen Lee viết kịch bản và làm đạo diễn.

Về đến nhà gần 11h khuya. Nhỏ Hồng hỏi “phim hay không?”, cười cười hỏi ngược lại nó: “mày muốn nói hay theo nghĩa nào?” – Thì em chỉ muốn hỏi xem nó có hay không thôi – Đây là phim tài liệu, cho nên chỉ hay với những ai muốn tìm hiểu về nó, còn bình thường thì có ai rủ nhau đi xem phim tài liệu đâu!

Theo lời giới thiệu được in trong catalog thì bộ phim đề cập đến cảnh ngộ của những đứa trẻ VN mồ côi và những người y tá, bảo mẫu đã cố gắng bằng nhiều cách đưa chúng đi di tản sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc. Đó cũng là những ghi chép về cuộc sống của chúng khi trở thành những đứa con nuôi khi được đưa đến Mỹ.

Nửa đầu bộ phim là những cái nhìn về sự kiện Mỹ thua trận, hình ảnh của người dân di tản ngay trong ngày 30/4 cùng một số phỏng vấn với những người Mỹ đã làm việc một cách kiên tâm bền bỉ trong nỗ lực mang tính nhân bản hòng bảo vệ cuộc sống của những đứa trẻ mồ côi.

Nửa sau bộ phim là cuộc sống thực của họ được gợi lại một cách nhẹ nhàng qua những bức ảnh và những câu chuyện. Những đứa trẻ mồ côi năm xưa, giờ thì người nhỏ nhất cũng đã bước qua tuổi 35, kể về những cảm giác xa lạ, những khó chịu, những sự khác biệt giữa họ và những người chung quanh mà họ cảm nhận được trong tuổi thơ mình, cũng như quá trình cố gắng đi tìm hiểu và khẳng định chính bản thân.

“Mày là ai?”, “Mày từ đâu đến đây?” dường như là câu hỏi thường trực mà họ đã phải nghe, và rồi tự nhìn lại sao mình không giống với những người chung quanh và cả những người họ đang gọi là mẹ là cha về ánh mắt, màu da, mái tóc,… Để rồi sau đó họ trăn trở và phải trả lời cho chính mình câu hỏi “Tôi là ai?”

Hình như di vật gắn bó để chứng minh cội nguồn của mỗi đứa trẻ mồ côi ấy chính là những tấm ảnh chụp chúng cùng với tấm bảng trước ngực có ghi tên họ, ngày tháng năm sinh. Đó cũng là chứng tích thôi thúc trong mỗi người một khát khao quay về để tìm lại quê hương nguồn cội, tìm lại cha mẹ đã sinh ra mình (nếu còn)…

Hình như không chỉ có tôi rơi nước mắt khi xem phim.

Trẻ thơ không có quyền lựa chọn thời điểm để được sinh ra nhưng lại là người phải chịu đựng, dự phần và trả giá cho những biến động lịch sử mà chúng vô tình bị ném vào. Những thương tổn trong kí ức, trong tình cảm - nếu có - của tuổi thơ chỉ có thể lành lặn và xóa nhòa trong sự nỗ lực tự vươn lên của mỗi cá nhân, bên cạnh tấm lòng và sự sẻ chia của những con người có trái tim vàng, như những người tôi đã gặp trong phim.

*Như bao lần, bạn Lan lại “tác nghiệp” bằng cái điện thoại của mình, chụp rồi quay hình và thâu tiếng luôn, khi nào thích và cần thì lôi ra nghe lại, hehe (thành ra chất lượng chỉ vậy thôi :p)

*À, có chuyện này vui: đi xem phim gặp đạo diễn Minh Ngọc. Tui biết MN vì MN là đạo diễn nổi tiếng mà. Tôi quay sang chào làm quen. Lát sau lúc rời khỏi phòng chiếu, MN kéo tôi ra hỏi: em tên là NL phải không? - Dạ phải. Tôi tròn mắt ngạc nhiên. Sao chị biết tên em? MN kể thế này thế này thế này, cuối cùng là có người gửi cho MN cái link blog của NL, biết NL từng là cô giáo hồi trước,… Hehehe. Rất hân hạnh và bất ngờ, khi có người biết về mình, nói chính xác tên mình trong lần gặp đầu tiên, mà lại là người nổi tiếng nữa chứ! Ha.)

Người áo đỏ là đạo diễn Tammy Nguyen Lee. 4 người đứng bên phải là những đứa trẻ mồ côi được đưa di tản cách đây 34 năm.

Một số người tham gia bộ phim.

Đạo diễn Nguyễn Thị Minh Ngọc