Monday, April 28, 2008

Entry for April 29, 2008 bài học ‘thế nào là nhân bản’

Tôi đã ngồi yên khá lâu sau khi đọc xong bài viết này (phần trích dưới đây chỉ là phần “Tháng Tư, 1865”, phần còn lại-“Tháng Tư, 1975”, thiết nghĩ mỗi người đều có cho mình một suy nghĩ khác nhau).

Và tôi nghĩ: mình đã học thêm được 1 bài học ‘thế nào là nhân bản’

Tháng Tư, 1865 - Tháng Tư, 1975

Phan Quang Tuệ - Ðỗ Thái Nhiên

Lúc bấy giờ là đêm ngày 8 tháng 4 năm 1865, Ðại Tướng Robert Lee thống lãnh quân đội miền Nam cùng Ban Tham Mưu ngừng chân đặt bản doanh Bộ Chỉ Huy trong một cánh rừng gần Tòa Thị Xã Appamatox, thuộc tiểu bang Virginia. Sáu ngày liên tiếp trước đó đạo quân miền Nam đã đi không ngừng nghỉ tiến về phía Tây hướng về dãy núi Blue Ridge nơi mà Tướng Lee từng tuyên bố ông có thể cầm cự chiến đấu ít nhất là 20 năm. Nhưng đêm nay khi Tướng Lee và Bộ Tham Mưu mệt mỏi của ông dừng quân tại Appamatox thì đạo quân miền Nam đang bị quân đội miền Bắc bao vây, lương thực cạn, hy vọng tiếp tế không có, hy vọng tăng viện cũng không. Xa xa tiếng đại bác xé màn đêm dội về... Tất cả hy vọng của Tướng Lee lúc này chỉ còn đặt vào một vị tướng trẻ gan dạ, John Gordon. Vị tướng này sáng sớm hôm sau sẽ tiến quân chọc thủng phòng tuyến bao vây của quân đội miền Bắc.

Cách đó không xa, viên sĩ quan phụ tá của Tướng Grant, thống lãnh quân đội miền Bắc, bước vào phòng riêng của Tướng Grant để đánh thức ông dậy. Người sĩ quan hầu cận vội mang đến Tướng Grant một tách cà phê nóng hổi. Tách cà phê dẫu có giúp nhẹ đi cơn nhức đầu nhưng không làm giảm bớt mối căng thẳng lo âu của Tướng Grant. Sau cùng Tướng Grant kéo ghế ngồi, và khởi sự thảo bức thư trả lời thư mới nhận được từ Tướng Robert Lee. “Tôi rất muốn hòa”, Tướng Grant viết, “và mong muốn kết thúc cuộc chiến mà không phải tổn thất thêm một nhân mạng nào nữa. Nhưng cuộc hội kiến do Ðại Tướng đề nghị vào 10 giờ sáng hôm nay không có một lợi ích nào cụ thể và tôi không có thẩm quyền quyết định hòa hay chiến.” Nhưng bức thư của Tướng Grant chưa kịp đến tay Tướng Lee, tiếng súng đã lại bắt đầu nổ.

5 giờ sáng, sương mù còn bao phủ rặng đồi bên kia Appamatox. Loạt đạn đầu tiên xé màn sương, đánh thức sáng Chủ Nhật, 9 Tháng Tư, 1865, tiếp theo là tiếng thét tiến quân của quân đội miền Nam. Từng đợt tấn công của Tướng Gordon đã đánh bật tuyến phòng thủ đầu của quân miền Bắc, chiếm nhiều cỗ súng đại bác, đánh bạt hai bên mở rộng đường tiến quân, và ào ạt tiến lên đồi. Nhưng từ phía bên kia đồi, quân miền Nam đã đụng phải một bức tường dày đặc, kéo dài hơn 2 dặm, của hai đơn vị bộ binh quân đội miền Bắc. Và ép từ phía sau là hai đơn vị bộ binh khác của quân miền Bắc tiến lên. Quân miền Nam bị ép vào giữa, tiến không được, lui cũng không xong, và chém vè cũng không được. Chỉ trong vòng 3 tiếng đồng hồ sau, Tướng Lee được tin khấp báo của Tướng Gordon “Quân sĩ của tôi đã chiến đấu hết mình. Trình Ðại Tướng tôi không làm gì hơn được nữa!”.

Lập tức Tướng Lee triệu tập Ban Tham Mưu thâu hẹp để quyết định hòa hay chiến.

Tướng Lee nói với các tướng bao quanh: “Giờ đây tôi chẳng còn làm gì hơn là đến trình diện và đầu hàng trước Tướng Grant”.

Nơi được chọn để nghị hòa là một căn nhà nhỏ mái ngói thuộc Appamatox, một thị xã hẻo lánh nằm vào phía Nam tiểu bang Virginia. Có độ chừng 20 căn phố, lèo tèo vài cửa hàng nhỏ, một lữ quán và tòa thị xã. Khi mặt trời leo lên cao là lúc Tướng Lee đã đến điểm hẹn, ông bước theo sự hướng dẫn của vị sĩ quan tùy viên và một sĩ quan tham mưu thuộc Bộ Tham Mưu của Tướng Grant. Tướng Lee, uy nghi trong bộ binh phục đại lễ, hông đeo trường kiếm, ngồi xuống cạnh một chiếc bàn gỗ nhỏ. Giờ đây ông đã có mặt ngay trong lòng đất đối phương.

Vào khoảng nửa tiếng sau, tiếng giày nện trên sàn gỗ và Tướng Grant bước vào. Khác hẳn với Tướng Lee, Tướng Grant không đeo kiếm, không mặc quân phục, quần và đôi ủng lấm đầy bùn.

Theo lời yêu cầu của Tướng Lee, Tướng Grant đích thân thảo bản văn kiện chính thức đầu hàng của quân đội liên hiệp miền Nam và sau đó tự tay trao cho Tướng Lee xem lại.

Chậm rãi, từ tốn, Tướng Lee rút cặp kiếng đeo mắt, lấy khăn lau kỹ lưỡng, đeo kính lên và chăm chú đọc.

“...Vũ khí, đại bác và các tài sản công phải được liệt kê, sắp xếp và giao nộp cho một viên sĩ quan do tôi chỉ định. Những vũ khí này sẽ không gồm có vũ khí cá nhân của các sĩ quan, cũng như ngựa và tư trang của họ. Sau khi hoàn tất, mọi sĩ quan và binh sĩ sẽ được phép trở về nguyên quán, và sẽ không bị quấy nhiễu bởi các cơ quan cầm quyền chừng nào họ tôn trọng lệnh đầu hàng và tuân theo luật lệ địa phương nơi họ cư ngụ.”

Lần đầu tiên trong buổi hội kiến, gương mặt của Tướng Lee tươi hẳn. Như vậy có nghĩa là sĩ quan và binh sĩ dưới quyền của ông sẽ không bị giam giữ như tù binh chiến tranh. Có nghĩa là họ sẽ không bị đem ra bêu riếu diễn hành hạ nhục trên các đường phố. Có nghĩa là họ sẽ không bị mang ra tòa truy tố về tội phản loạn.

Tướng Lee nói, “Thưa Ðại Tướng, những điều kiện đầu hàng thế này sẽ có ảnh hưởng rất tốt với quân đội của tôi.”

Và Tướng Lee nói tiếp, “Nhưng thưa ngài, trong quân đội miền Nam của tôi, ngay cả binh sĩ khi gia nhập cũng mang theo ngựa của họ vào quân đội.”

Tướng Grant nói ông sẽ không thay đổi gì trong văn kiện đầu hàng, nhưng sẽ ra khẩu lệnh cho phép mọi binh sĩ miền Nam được phép mang ngựa và lừa về quê quán để sử dụng trong việc trồng trọt ở các nông trại.

Tướng Lee còn thêm một lời yêu cầu nữa. Ông trình bày cho Tướng Grant biết ông còn giam giữ hơn một ngàn tù binh quân đội miền Bắc nhưng không có lương thực cung cấp cho họ và ngay chính quân đội của ông cũng không còn lương thực. Không ngập ngừng, Tướng Grant đề nghị sẽ ra lệnh xuất kho cấp ngay khẩu phần cho hơn 25,000 quân sĩ của quân đội liên hiệp miền Nam. Tướng Grant hỏi, “Như vậy, đủ chưa?”

“Thưa quá đủ, quá đủ, thưa đại tướng.” Tướng Lee trả lời.

Tướng Lee đứng dậy, lần lượt bắt tay các sĩ quan trong Bộ Tham Mưu của Tướng Grant, bắt tay Tướng Grant, nghiêng mình chào tất cả mọi người có mặt và bước ra khỏi phòng họp.

Tướng Grant và ban sĩ quan tham mưu đã đứng sẵn ở bao lơn trước căn nhà, nơi đôi bên nghị hòa. Khi ngựa Tướng Lee rảo bước đi qua, cặp mắt của hai vị tướng quân chạm nhau trong giây phút, họ đồng ngả nón chào nhau. Trên bao lơn xung quanh Tướng Grant và suốt trong sân trước căn nhà lịch sử, sĩ quan và binh sĩ miền Bắc đều đưa tay chào kính vị tướng bại trận quân đội liên hiệp miền Nam.

Tin đồn đầu hàng của Tướng Lee tràn lan mau chóng như thuốc súng. Khắp nơi binh sĩ miền Bắc reo mừng. Họ liệng lên không trung mũ nón, giày, bao đạn, áo hay bất cứ vật gì có thể ném tung lên được. Họ ôm nhau, hôn nhau. Các súng ống, kể cả đại bác bắt đầu nổ. Thế nhưng Tướng Grant nhanh chóng ra lệnh ngưng ngay tức khắc những biểu lộ nổi vui mừng của binh sĩ miền Bắc. “Rồi sẽ có ngày mừng chiến thắng”, Tướng Grant giải thích, “Nhưng không phải là ngày hôm nay. Quân đội miền Nam đã đầu hàng. Chúng ta không được phép reo mừng trên chiến bại của họ”. Ðiều quan trọng với Tướng Grant là phải làm sao để thắng trận, đồng thời cũng phải gìn giữ cho bằng được sự toàn vẹn tình cảm giữa những người cùng trong cộng đồng dân tộc Hoa Kỳ.

4:30 chiều ngày 9 Tháng Tư, 1865, Bộ Trưởng Bộ Chiến Tranh tại Hoa Thịnh Ðốn nhận được một điện văn ngắn ngủi của Tướng Grant, “Tướng Lee đã buông súng đầu hàng quân đội miền Nam theo những điều kiện do tôi ấn định.”

Cách đó không bao xa, Tướng Lee cỡi ngựa trở về bản doanh của mình. Dọc hai bên đường, binh sĩ miền Nam nghiêm chào vị tướng lãnh mà họ tôn sùng. Nhiều người bật khóc, phủ phục bên đường. Tướng Lee cũng không cầm được nước mắt. Về đến đại bản doanh, trước mặt sĩ quan và binh sĩ đứng chờ, Tướng Lee hướng về họ và nói: “Ta đã cố gắng làm tất cả những gì có thể làm được. Và nay lòng ta nặng trĩu và không thể nói gì hơn”.

Bước đi vài bước, ông dừng lại và thêm: “Các ngươi hãy trở về quê quán. Và nếu các ngươi sống được như những công dân tốt như các ngươi đã từng chiến đầu như các chiến sĩ thì các ngươi sẽ thành công rồi. Và tôi sẽ luôn luôn hãnh diện vì các anh em.” Và Tướng Lee biến mình vào trong lều vải của mình.

Ðiều kiện đầu hàng được hai Tướng Lee và Grant ký kết tại Appamatox ngày 9 tháng 4, 1865 thì 3 ngày sau, ngày 12 Tháng Tư mới là ngày quân liên hiệp miền Nam chính thức buông súng đầu hàng.

Hai đạo quân dàn đôi bên con đường chạy theo phía Ðông rừng Appamatox. Chỉ huy cánh quân miền Bắc và điều khiển buổi lễ là Tướng Chamberlain, nguyên là một giáo sư đại học, Huy Chương Danh Dự, hai lần bị thương trên chiến trường.

Chỉ huy 28,000 sĩ quan và binh sĩ liên hiệp miền Nam là Tướng Gordon, một trong những cận tướng can trường của Ðại Tướng Lee, 4 lần bị thương tại mặt trận, một lần bị trúng đạn xuyên qua mặt.

Tướng Chamberlain đã ghi lại trong hồi ký của mình: “Từng đoàn, từng đoàn, họ tiến bước theo nhịp quân hành, ép chặt vào nhau giống như một dòng người đội vương miện màu đỏ ối, giương cao quân kỳ và hiệu kỳ. Ðây là những người mà gian lao, đau khổ, nhọc nhằn, kể cả tử thần không bẻ cong được quyết tâm của họ. Họ đứng thẳng hàng trước mặt đoàn quân chúng tôi, một đoàn quân tơi tả, xương xẩu, nhưng hiên ngang, mắt sáng ngời chiến thắng, họ là những hình ảnh sống phản ảnh mối liên hệ thắm thiết chỉ có thể có giữa những đồng đội trên chiến trường”.

Không hề dự định trước, cũng như không hề được chuẩn y trước, Tướng Chamberlain bất thần hô lớn ra lệnh, “Bồng súng chào!” cho quân đội miền Bắc. Một tiếng kèn lệnh vang lên, và lập tức toàn thể đoàn quân miền Bắc bồng súng lên vai, tiếng báng súng rập khuôn vang lên.

Phía đối diện, Tướng Gordon thúc nhẹ con tuấn mã khụy hai chân trước xuống, người và ngựa cùng cúi đầu, gươm tuốt trần chúc mũi trong một giáng điệu hùng vĩ tuyệt vời. Cùng lúc, đoàn quân miền Bắc chuyển qua bồng súng nghiêm chào. Họ chào những “anh hùng bại trận”, họ bày tỏ sự kính trọng của những người Hoa Kỳ đối với những người Hoa Kỳ.

5 comments:

  1. Cám ơn bạn Lan đã trích bài này, trong dịp 30/4. Tôi đã từng có cảm xúc tương tự khi đọc cuốn “April 1865: The Month That Saved America” của Jay Winik (tôi đoán bài này dựa trên cuốn đó?). Khi nhắc tới sự chia cắt của người Việt, chúng ta hay dùng những câu như “Đã 33 năm rồi ...", tôi e rằng không đúng lắm, vì phần lớn những gì gây ra hận thù và đau đớn kéo đến bây giờ đã sảy ra SAU chiến tranh chứ không phải TRONG chiến tranh. Xin trích mấy câu từ bài này của nhà văn Phạm Thị Hoài trong một bài cũng được viết nhân ngày 30/4:
    “Nhưng nhà tù, trại cải tạo, tước đoạt tài sản, kì thị trẻ em lai, phân biệt đối xử và thanh trừng trí thức, huỷ diệt và cấm đoán các sản phẩm văn hoá văn nghệ, xoá trắng hàng loạt cuộc đời và sự nghiệp... ở quy mô bao trùm toàn xã hội miền Nam ngay sau ngày giải phóng nhất định không phải là những hành vi xứng đáng với tư thế của kẻ chiến thắng trong chính nghĩa, không phải là bằng chứng cho tính ưu việt của chế độ mới so với chế độ mà nó vừa kết liễu. “
    . . .
    “Làm sao có thể hoà giải, nếu không sám hối và tha thứ? Làm sao có thể khép lại quá khứ, khi người Việt và người Mĩ đã có thể chìa tay cho nhau, nhưng người Việt tiếp tục không chìa tay cho người Việt?”
    http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=4397&rb=0307

    ReplyDelete
  2. Sorry, "xảy ra" chứ hông phải "sảy ra". Nhân tiện đây, xin lỗi bạn Lan trước cho những lỗi chính tả của tôi, nó tệ quá, xấu hổ thiệt. Is there a Vietnamese spell check program somewhere? :D

    ReplyDelete
  3. @ VietPundit: Cám ơn sự đồng cảm của anh.
    Nhiều người Việt còn không chấp nhận đọc những bài như thế này thì làm gì còn tính đến chuyện chìa tay cho nhau.
    Lại phải nói đến hai chữ: bao giờ...

    ReplyDelete
  4. Cảm ơn bài chọn lọc của bạn.
    Đây là câu chuyện về nhân cách của cá nhân nói riêng và của cả một tập thể nói chung. Chúng ta đã không được "may mắn" nên lịch sử và tiền đồ hóa ra nhầy nhụa, và nói như bạn, không biết bao giờ mới thoát ra được.
    Cho phép tôi copy bài này về blog của tôi nhé!

    ReplyDelete
  5. Đúng, không biết bao giờ... Nói đúng hơn thì những người ở chế độ này không chấp nhận người ở chế độ trước và ngược lại cũng vậy. Bao giờ thì 2 chữ đồng bào mới đúng nghĩa đây?

    ReplyDelete