Tuesday, January 29, 2008

Entry for January 30, 2008 Ngày xưa...

Một bài thơ, một bài hát thật dễ thương, dễ gợi cho ai đó nhớ về những lãng mạn ngày xưa...

Ngày xưa, trời ở trên trời

Trời xui ‘đằng ấy’ xuống ngồi bên ta

Ngày xưa ‘đằng ấy’ nhà xa

Tan trường mưa quá nên ta đưa về

Ngày xưa ‘đằng ấy’ tóc thề

Ta thời tóc ngắn nên về tương tư

Ngày xưa ta viết phong thư

‘Ðằng ấy’ nhận được dường như... bằng lòng

Ngày xưa có tiếng thì thầm:

“Mai sau đừng có thay lòng à nha!’

Ôi...

Ngày xưa... đằng ấy đã quên

Trời mưa, mưa quá cho nên phai lòng

Thôi thì trời đã sang đông

Thôi thì người đã đành lòng quên ta

Trời ơi, trời ở cao xa

Ngày xưa nhắc lại.... chỉ là ngày xưa...

Tuesday, January 22, 2008

Entry for January 22, 2008 Thời sinh viên

Đọc entry của bạn Thủy Châu nhắc đến các thầy ở khoa văn ĐHSP làm tui nhớ đến những năm làm SV quá!

Tụi tui thuộc niên khóa 1990-1994, năm đầu tiên áp dụng chế độ học tín chỉ-đại cương. Nhưng thật sự chương trình học đó có khác gì so với trước và sau này không thì tui chẳng biết!

Bây giờ mới thành thật mà nói thì tui chỉ thực sự học hành đàng hoàng được có học kỳ đầu tiên của năm thứ nhất thôi. Sau đó thì trượt dài trên con đường… yêu đương.

Cho nên thật là xấu hổ khi có nhiều thầy cô dạy lớp tui mà tui còn chưa kịp nhớ tên! (vì tui có mặt ở lớp thường xuyên đâu) Không giống như bạn Nhung hay được các thầy nhớ đến, hay bạn Châu có những ấn tượng rất sâu sắc về các thầy…

Nói như vậy chứ cũng có nhiều kỷ niệm về 4 năm hành xác ở đại học lắm!

Tui nhớ người bạn đầu tiên ở ĐH là Kim Liên. Rồi sau đó tham gia hội ‘ở lại trường ăn trưa’ có thêm Hải Yến.


Yến, Giang, Lan, Liên (từ trái qua): 20/11 năm thứ nhất


Lan, Yến, Liên, Giang (từ trái qua): 20/11 năm thứ tư

3 đứa. Cứ mỗi ngày sau những tiết học buổi sáng lại rủ nhau ra những quán cơm bình dân trên đường Nguyễn Văn Cừ-đối diện ĐHTổng Hợp để ăn cơm cùng với những người bình dân khác.

Tui còn nhớ món được tụi tui ăn thường xuyên nhất là dĩa cơm với 1 cái trứng kho hoặc ½ cái trứng cùng 1 cục thịt nhỏ + thêm chén canh toàn quốc, tất cả giá 800 đồng. Ngay tại quán cơm có sẵn thùng trà đá miễn phí. Những hôm sang trọng hơn thì lội bộ chút nữa tới trước trường Lê Hồng Phong uống nước dừa 200 đồng/ly. (Còn nhớ năm đó học bổng được 24,500/tháng, vậy là đủ tiền cơm rồi)

Ăn xong 3 đứa đi trở vào trường, tìm xem cái phòng học nào còn trống, chưa có ai thì chui vào, và nằm trên cái băng ghế dài tán dóc, hoặc ngủ. Có hôm, không chịu ngủ lại nằm hát nghêu ngao. Nhớ bạn Yến hay hát “Khi mới yêu nhau anh hay nắm tay em dặn dò…” (Chả biết ai dặn nó cái gì mà nó nhớ cho tới bây giờ không chịu… ‘chống lầy’).

Tui lại nhớ lúc đó ai đặt cho tui, Châu Giang, Thanh Huyền và Vương Liễu Hằng là ‘tấm nệm Kymdan”, có lẽ vì cả 4 đứa đều ‘tròn tròn’ như nhau (đương nhiên tui vẫn là đứa ‘tròn nhất’, mập mạp bẩm sinh mà!).

Nệm kymđan: Huyền, Hằng, Lan, Giang (từ trái qua)

Nhớ nhất là thời gian học quân sự ở công viên Gia Định (hình như thuộc quận Bình Thạnh?) trước khi nghỉ Tết của năm thứ 2 và năm 4, mỗi đợt 2 tuần.

Vui không thể tưởng.

Thời gian học quân sự (năm 4)


Vì nơi học khá xa (hay do vì nắng noi làm biếng chạy xe đạp về) cho nên phần lớn tụi tui đều ở lại trên công viên, và mang cơm theo ăn trưa. Nói là công viên nhưng đừng hình dung ra là thơ mộng, sạch sẽ,… Nơi đó như 1 vùng đất trống có vài cây to cùng cỏ mọc um tùm, thấy có nhiều khi người ta mang ngựa đến đó để huấn luyện nữa.

Cái khoái nhất là cứ mong đến giờ nghỉ ăn trưa để đem đồ ra ăn chung, xong trải mấy cái áo mưa bon-sô ra nằm ngủ giữa thanh thiên bạch nhật.

Mỗi đợt học quân sự khá đông nhưng trên đó nhà vệ sinh thì lại rất thiếu và dơ. Cho nên khi ‘hữu sự’ lắm thì mới dùng đến còn không thì… chui vô bụi.

Có lần đó mấy đứa con gái đang lò dò đi tìm chỗ ‘hành sự’, sắp sửa ngồi xuống thì nghe tiếng mấy thằng con trai rõ mồm một bên tai. Thì ra tụi nó cũng đang… Tụi con gái bụm miệng rút lui tìm chỗ khác…

Mỗi sáng cả lớp tập họp, điểm danh, và lớp trưởng báo cáo với thầy theo kiểu quân đội. Có một hôm, tên nào tập họp tui quên rồi, đến lúc chuẩn bị báo cáo quân số với thầy, tự dưng nó kêu cả lớp đàng sau quay. Tụi tui cũng theo mệnh lệnh mà làm thôi. Khi quay đằng sau thì xa xa phía trước là 1 lùm cây. Một chốc sau bỗng rộ lên nhiều tiếng cười, và càng lúc càng lớn. Mà bọn con gái đã cùng nhau cười thì cũng ghê lắm.

Khi đó thầy mới phát hiện ra là trong lùm cây đó có một anh chắc đang làm ‘đại sự’, và anh chàng có lẽ đã chọn hướng sau lưng lũ quỉ cho an toàn, ai ngờ đứa tập hợp rắn mắt phát hiện ra nên cho cả lớp quay hết lại phía sau. Làm anh chàng không biết tiến thoát lưỡng nan ra sao! Thầy Điềm (ồ, tự dưng nhớ được tên thầy dạy quân sự) vừa cười vừa chửi “Lũ chúng mày…” và cho cả đám quay ngược trở lại để cứu nguy cho tên kia!

Đến khi học quân sự ở năm 4 thì lại nhớ bạn Hùng. Khi ấy KTX đã chuyển về chỗ Lạc Long Quân, tui thì ở gần đó (khi ấy đã lấy chồng rồi). Bạn Hùng có xe máy, nên tui có giang theo. Mỗi sáng Hùng ghé nhà chở tui đi, rồi ăn sáng luôn, Hùng trả tiền, còn tui thì trả tiền gửi xe thôi, phân công như vậy.

Đến khi 2 tuần học quân sự gần xong, Hùng mét với ông xã tui: Tao nói tao trả tiền ăn sáng, cái Lan chỉ trả tiền gửi xe, nhưng đến lúc tao lấy xe thì nó cứ nhìn đi đâu á!!!!

Oh, man, tui ngớ ra và cảm thấy mắc cười quá vì đúng là tiền gửi xe chỉ trả khi lấy xe ra. Mà chỉ mình bạn Hùng vào lấy xe thôi, tui đứng tuốt ngoài kia chờ thì làm sao mà trả tiền được! Hheheeheheh. Ngẫm lại thấy đúng là hình như bạn Hùng mắc nợ bạn Lan rồi! Đã phải chở đi, còn tốn tiền bao ăn sáng, tiền gửi xe, và thỉnh thoảng còn tốn tiền uống càfê nữa! (Thôi, bạn Hùng ráng chờ mai mốt mình làm Việt Kiều yêu nước trở về dẫn bạn đi ăn bù nghe!)

Mặt bạn Hùng bị ‘xù’ tiền gửi xe


Rồi lại nhớ chuyện đi thư viện quốc gia ở đường Lí Tự Trọng.

Bạn Liên hay Yến gì đó hướng dẫn tui làm thẻ TV quốc gia. Đi TV ở đó cho oai! Phải công nhận là lúc đó TV đó sạch sẽ và đẹp thiệt, nhất là có dãy hành lang gần restroom mát ơi là mát, nên buổi trưa nhiều đứa chui ra đó nằm ngủ!

Muốn vào TV đó phải có thẻ, rồi phải gửi cặp xách gì lại bên ngoài (hình như vậy)…

Có lần tui hẹn hò với người yêu tui lên đó. Chàng thì không có thẻ. Tui bèn chỉ cách là cứ giả bộ nói mình đã vô trong đó rồi, vừa mới ra ngoài đi ăn, tập vở còn ở trỏng… (tui đã dùng chiêu này 1 lần rồi, thấy cũng okê).

Đến ngày hôm đó, thay vì lên TV thì tui đạp xe lên nhà bạn Liên ở tuốt chợ Bà Chiểu luôn (lí do vì sao tui quên rồi). Qua ngày hôm sau gặp lại, tui hỏi có lên TV không, chàng cười cười nói có.

Xong chàng kể tui nghe chàng cũng xăm xăm đi vô TV, bảo vệ chặn lại chưa kịp nói gì thì chàng cũng tuôn luôn 1 bài mà tui đã hướng dẫn… Đợi chàng nói xong, đồng chí bảo vệ từ tốn trả lời: hôm nay thứ tư, TV đóng cửa!

Chàng nói: ủa, vậy hả? rồi dọt!!!!

Khi ấy tui cũng chợt nhớ: tui quên nói TV đóng cửa thứ tư!

Mới đó mà đã mười mấy năm rồi.

Không biết khi nào mới họp lớp đông đủ để còn lôi ra bao nhiêu là chuyện để nói.

Một thời để nhớ, một thời để thương…

Một lần họp mặt (2001)


Những gương mặt hành xác đủ 4 năm ở khoa Văn.

Bạn Huyền vừa nhắc đây cũng chính là sơ đồ chỗ ngồi của các bạn trong mấy năm ĐH luôn đó. (tui thì chẳng nhớ tui ngồi ở đâu, hình như ở ngoài đường nhiều hơn!)

Nghe bạn Yến la làng quá, mình post thêm 1 tấm hình những gương mặt sau 11 năm tốt nghiệp nè (6/2005).

(Yến, Huyền, Lan, Nhung, Mai, Thủy)


Saturday, January 19, 2008

Entry for January 19, 2008

Hôm nay 1 sếp ở công ty đem vào tặng mỗi người 1 chậu lan.

Mỗi nhành lan mỗi vẻ, nhìn cũng hay hay.

Trong lúc chờ công việc xong để ra về, tui xách cái cell phone của tui đi vòng vòng chụp một vài nhánh chơi.

Một sếp khác thấy nói: hết chuyện, lấy điện thoại mà chụp thì thấy được cái gì!

Thì cũng thấy được nè chứ bộ! hehehehe


Chủ sao hoa vậy!


Mạnh mẽ, vững chãi như cô Minh Phú.
Yểu điệu như Thúy Thu.

Sang như… lan


Màu tím hoa… lan.

…như đàn bướm lượn



Vàng rực như… lay-ơn.


Nếu có mua thì tui sẽ không mua hoa màu này đâu.


Ms. Yến có… 3 hoa (còn thiếu ‘chích chòe’)!

Chậu này trong phòng của mấy ông…

Đây cũng là Lan nữa nè!

Thursday, January 17, 2008

Entry for January 17, 2008

Đọc cái entry của đứa học trò cũ.

Nhỏ chạy xe trên đường và làm rơi cái điện thoại lúc nào không hay.

Một bác già chạy lên nói: con ơi xem có bị rớt cái điện thoại dưới kia không? - Nhỏ không thèm quan tâm.

Một chú nữa chạy lên: con ơi xem có rớt điện thoại không? - bán tín bán nghi nhưng nhỏ vẫn cứ chạy.

Đến nơi nhỏ mới biết mình bị mất điện thoại thiệt!

Nhưng làm sao mà tìm lại được.

Đọc entry của nhỏ xong vừa mắc cười mà lại vừa cảm thấy buồn cho nhân tình

thế thái.

Cuộc sống với quá nhiều sự lừa lọc, gian trá, đến mức mà lòng tốt được xem như là một cái gì đó khó tin trong đời thường. Chính vì không tin, chính vì phải cảnh giác với tất cả nên nhỏ đã… trở thành nạn nhân.

Không thể trách nhỏ được.

Trách ai bây giờ?

(Doc entry cua nho o day:

http://360.yahoo.com/profile-mabFueM1bqU9STS8NsclvXlH_IU-?cq=1

Monday, January 14, 2008

Sunday, January 13, 2008

Entry for January 13, 2008


Cái hoa này mang tên tui nè! (Hình chôm từ blog của người ta!)

Tui nhớ lần đầu tiên khi tui biết mặt mũi, hình dáng của cái hoa mang tên tui là hè năm học lớp 10. Tui xách hành trang lên trường Đoàn LTT ở Thủ Đức tá túc 10 ngày.

Trường đó có rất nhiều cây này, thơm… không chịu nổi.

Thực sự là nếu cầm những cái hoa màu trắng ngà này để xa xa mũi ngửi sẽ thấy rất thơm, rất dễ chịu, nhưng cứ dí sát lỗ mũi 1 hồi là tui sẽ bị… nhức đầu.

Rồi thì tui rất thích những bài thơ, hay bài hát nào có nhắc đến tên hoa đó.

Và cũng chính vì vậy mà hồi đó bạn Liên (bây giờ đang dạy trường Gia Định) đã chép cho tui 1 số bài thơ có 2 chữ ‘tên tui’ khi tụi tui chuẩn bị tốt nghiệp đại học (vẫn còn giữ và mang theo sang đây!)

Không biết có nên trồng 1 cây hoa này trong nhà không nhỉ? (đã có sẵn cả 1 cây cổ thụ rồi còn gì! Hheehehe)

Hình:Michelia alba.jpg
Hoa lúc còn búp
(Hình chôm của http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/3/3c/Michelia_alba.jpg)

Saturday, January 12, 2008

Entry for January 12, 2008 đi Big Bear


Hình hôm nay Ty và Bi đi Big Bear.
Bi và Ty thì khỏe re nhưng tui thì bị ói như điên, cả đi lẫn về.
Coi đỡ mấy tấm này trước, mai khỏe sẽ tả lại cho những ai chưa biết Big Bear nghe.
Mấy tấm hình không có người là chụp lúc xe đang chạy (vừa ói xong thì chụp, chụp xong lại… tiếp., cứ như vậy.)
Tội nghiệp Bi cứ lui cui lượm tuyết đòi đem vô lớp cho mấy bạn coi!








Wednesday, January 9, 2008

Entry for January 09, 2008 Người Việt Cali và Tết Nguyên Đán (III)

Nếu như ông bà Thụ đến Mỹ bằng chương trình HO, chị Hồng đi theo diện ODP, thì hành trình đến Mỹ của gia đình anh Nam Trần và chị Nga Lê phải mất đến… 16 năm.

Anh chị rời Việt Nam trên chuyến tàu vượt biển cùng đứa con gái 15 tháng tuổi vào năm 1989. (Nhắc đến thời điểm này, tôi bỗng nhớ đến 2 anh em Hùng và Thu Hồng học cùng lớp tôi năm 11. Sau hơn 1 tuần vắng mặt ở lớp, cuối cùng cái mà bọn tôi nhận được là quyển nhật kí của Hồng được 1 người dân ở Mỹ Tho nhặt được dưới sông, thấy trong đó có dòng chữ ‘Nếu ai nhặt được quyển NK này, xin hãy mang đến cho N.T.Nh.H, địa chỉ…’ nên đã nhờ người quen lên thành phố chuyển đến tay Nh.H… và chúng tôi biết… cả Hồng và Hùng đều đã… Khi đó chúng tôi chưa kịp bước qua tuổi 17)

Nơi anh Nam và chị Nga cùng đứa con gái nhỏ của mình cập bến không phải là những vùng đất tự do như mong ước, mà là Philippines.

“Mặc dù cái Tết Nguyên Đán đầu tiên xa quê hương đã được những thuyền nhân khác như chúng tôi tổ chức khá xôm tụ và tươm tất nhưng cũng không sao quên được nỗi nhớ nhà, cồn cào, da diết,” anh Nam hồi tưởng lại.

Như những thuyền nhân VN khác - những người sống mà không thấy đâu là tương lai, đâu là ngày mai, không tổ quốc, không quê hương, không thân phận dù rằng niềm tin vào một ngày sẽ được đặt chân đến miền đất hứa vẫn không thôi cháy bỏng trong họ - gia đình anh Nam, chị Nga đã lần lượt đón thêm… 15 cái Tết Nguyên Đán nữa trên đất Phi, cùng với sự có mặt thêm một thành viên mới trong gia đình: 1 bé trai được sinh vào năm 1995.

Anh Nam kể, Tết Ta ở Phi mọi người cũng tổ chức gói bánh chưng, bánh tét, cũng có múa lân, họp mặt ăn uống, chúc tết, lì xì… như phong tục ở quê nhà.

Nhờ chương trình tị nạn do chính phủ Hoa Kỳ tái cứu xét, tháng 12 năm 2005, gia đình 4 người của họ cũng đã đặt chân đến Cali.

“Do đã được các hội đoàn Việt Nam hải ngoại trước đó nói rất kỹ, rất nhiều về cuộc sống khó khăn lúc đầu ở Mỹ, nên chúng tôi không cảm thấy ngỡ ngàng, bị stress, hay bị sốc như những người định cư từ Việt Nam qua. Hơn nữa, tụi tui được sự giúp đỡ rất nhiệt tình của các hội bảo trợ, các hội đoàn trong nhà thờ, của những bạn bè đã được sang Mỹ từ trước… nên cái Tết đầu tiên trên đất Mỹ vẫn rất vui,” anh Nam vui vẻ kể.

“Và khi Tết đến, chúng tôi không nhớ nhiều về VN nữa mà lại nhớ Phi. Mười mấy năm trời, cùng một hoàn cảnh tha hương, cùng sống chung một làng, nên tất cả như gia đình…”

Cuộc sống của gia đình họ giờ đây cũng đã bắt đầu đi vào ổn định, sau 2 năm ở Mỹ. Cả 2 anh chị đều có công việc làm, cô con gái lớn đã vào college, người con trai nhỏ đang học middle-school.

“Nhà tôi luôn ăn tối chung với nhau. Cho dù ai có về trễ thì những người khác cũng chờ, bởi đó là thời gian cả nhà tụ họp lại, kể cho nhau nghe về mọi chuyện, nhất là chuyện trường lớp của các con,” anh Nam nói về cách quan tâm chia sẻ của các thành viên trong gia đình mình.

Anh cho rằng cha mẹ cần phải là đầu tàu cho con cái, và hy vọng con cái sẽ nhìn thấy được những hy sinh vất vả khó nhọc của cha mẹ để mà cố gắng học hành, để sống cho phải đạo làm con.

Vẫn bằng giọng nói sôi nổi, đầy vẻ lạc quan, anh Nam cho rằng: “Năm cũ vừa qua là một năm rất tốt với gia đình tui và hy vọng năm mới này cũng sẽ như vậy. Còn trong những ngày Tết thì tất nhiên là cũng theo phong tục của ông bà thôi.”

“Cũng sẽ đi hội chợ Tết mặc dù không có mua cái gì hết!” chị Nga cười giòn tan.

Tôi đã cảm nhận được cái hạnh phúc đầm ấm trong ngôi nhà của gia đình họ


Entry for January 09, 2008 Người Việt Cali và Tết Nguyên Đán (II)

Gia đình thứ 2 tôi ghé đến là nhà vợ chồng ông bà Hoàng Công Thụ và Nguyễn Thị Sử. Cả 2 ông bà năm nay đều đã 77 tuổi, hiện đang sống tại Westminster Sennior Apts.

“Chúng tôi ăn cái Tết Nguyên Đán đầu tiên trên đất Mỹ là vào năm 1990, tại Maryland,” ông Thụ vui vẻ kể.

Hoàn toàn khác với chị Hồng, ông Thụ nói: “Cảm giác của chúng tôi à? Đó là cái Tết sung sướng nhất của gia đình tôi, từ sau 1975.”

Bà Sử bùi ngùi nhắc lại: “Ông nhà tôi đi ‘cải tạo’ 13 năm, và dĩ nhiên đó là 13 năm không có Tết. Ông ra tù năm 1988. Đời sống lúc đó vô cùng khó khăn.” Bà Sử tiếp bằng giọng nghẹn ngào: “Tôi vẫn còn nhớ cái Tết đầu tiên sau khi ông ấy ra tù, người hàng xóm cho được 1 lạng thịt… vừa mừng lại vừa tủi.”

Hai ông bà đến Mỹ vào cuối năm 1990 cùng 3 người con nhỏ. Trong thời gian ông Thụ ở tù, bà Sử đã 1 mình ở nhà bươn chải để có thể kiếm tiền nuôi con và lo cho 5 người con lớn đi ‘vượt biên’.

Cũng như phần lớn các gia đình Việt Nam khác lần đầu tiên đến Mỹ, ông bà cũng bị ‘sốc’. Một viễn cảnh về nước Mỹ giàu sang đâu chưa thấy, chỉ thấy rằng để có được đồng tiền, công sức họ đổ ra rất nhiều. Sang Mỹ khi tuổi đã lớn, thời gian đầu, 2 ông bà đi cắt chỉ cho các shop may. Làm việc cực lực cả tháng, 2 vợ chồng nhận được $400. “Cầm $400 tiền lương của cả 2 vợ chồng trên tay mà nước mắt tôi cứ chảy dài, cô ạ! Lúc đó tôi nghĩ, nếu biết trước mà sang Mỹ cực như thế thì tôi đã không đi đâu,” bà Sử nói.

“Nhưng cũng có cái được trước mắt đó là tôi ngủ được, và không còn cảm giác phập phòng sợ hãi, nhất là cảm giác run sợ khi nghe tiếng gõ cửa!” Họ nói cảm giác đó đã đeo đẳng họ suốt cả mười mấy năm trời từ sau ngày 30/4 cho đến khi họ rời khỏi Việt Nam. (qua nhiều câu chuyện kể của nhiều người, tôi đã hiểu nỗi sợ hãi của người dân sau 75 mỗi khi nghe tiếng gõ cửa là gì)

Rồi thì cuộc sống của họ cũng đã đi vào ổn định sau 2 năm định cư trên đất Mỹ. 8 người con của họ giờ đều đã thành tài. Ông Thụ cười cười và cố giấu vẻ mãn nguyện, nói: “Thôi, đừng viết điều này người ta nói mình khoe. Hơn nữa ở đây rất nhiều người có con cái thành đạt.”

Ông bà không nói, nhưng tôi biết cả 8 người con của họ đều là những bác sĩ, kỹ sư với học vị PhD, chưa kể một số dâu rể.

Tôi hỏi ông bà về cách làm thế nào để giữ được tình thân ái, cái tôn ti trật tự trong một gia đình người Huế. Ông Thụ trả lời: “Phận làm cha mẹ phải biết quan tâm và hy sinh cho con. Phải hiểu Mỹ là một xứ tự do, nhưng tự do trong bổn phận làm tròn trách nhiệm của những người mẹ, người cha. Cha mẹ phải làm gương cho con, cố gắng hiểu con, hòa hợp với con. Và không bao giờ để mình trở thành gánh nặng cho con.”

Trong những năm con học đại học, con cái học đâu, ông bà dọn nhà đến đó để có thể lo cơm nước cho con. Con xong đại học 4 năm, chuẩn tiếp lên học chuyên ngành, ông bà lại chuyển theo… Khi cậu úc học xong bác sĩ ở Cali, ông bà lại về Maryland chăm sóc con gái sanh cháu… Cứ vậy, khi nào con cần, ông bà lại có mặt. Đến năm 2005, khi con cái đã ổn định vững vàng ông bà quay trở về Cali, sống riêng bởi không muốn ‘làm phiền các con’.

Trả lời câu hỏi của tôi về việc tổ chức Tết Nguyên Đán ở Mỹ, ông bà nói: “Năm nào cũng tổ chức, cũng có mâm cơm cúng ông bà tổ tiên với bánh chưng, bánh tét, thịt đông. Các con cháu ở xa không về được thì gọi điện chúc Tết. Con cháu ở gần thì cùng đi chùa, mừng tuổi, lì xì. Dẫu sao đó là truyền thống tổ tiên, không thể bỏ qua được. Hơn nữa đây cũng là dịp để các cháu nội ngoại sanh ở Mỹ có dịp hiểu thêm về cội nguồn”

“Có bao giờ 2 bác có định sẽ một lần trở về ăn Tết ngay tại quê nhà không?”

“Không, con ạ! Dẫu biết sống không có quê hương là một nỗi tủi nhục, nhưng bác vẫn chưa bao giờ nghĩ mình sẽ quay về. Nỗi ám ảnh của ngày xưa vẫn còn nhiều quá!”, ông Thụ trầm ngâm.

“Trước thềm năm mới, bác chỉ mong sao mình có sức khỏe để sống lâu hơn để nhìn thấy sự trưởng thành của các cháu, và 2 cô con gái còn lại yên bề gia thất,” ông Thụ vui vẻ nói.

Bà Sử thêm vào: “Tôi thì muốn có thêm nhiều cháu nội cháu ngoại, cô ạ! Hiện giờ tôi chỉ mới có 8 đứa thôi!”

Nhìn vào gương mặt và nụ cười của 2 ông bà, tôi biết họ đang rất thanh thản và bình an trong tâm hồn, sẵn sàng chờ đón Mùa Xuân thứ 77 trong cuộc đời họ.


Tuesday, January 8, 2008

Entry for January 08, 2008 Ty and Bi

Về đến nhà gần 9h tối. Thấy bé Ty đang gọi đầu cho thằng Bi, vì không hiểu nó đánh răng thế nào mà kem đánh răng dính lên đầu.

Nhìn 2 chị em thấy thương vô cùng. Miệng đứa nào cũng ‘chách chách chách’ Mẹ chỉ kịp xắn tay áo lên để làm tiếp công cuộc xả nước cho sạch xà bông trên đầu Bi…

Ra ngoài mẹ sấy tóc cho Bi, Ty không biết cũng bật máy sấy tóc bên phòng Ty, thế là mất điện!

3 mẹ con loay hoay không biết phải mở cái CP nào cho điện có trở lại, vì trước giờ đó là chuyện của ba!

3 mẹ con thử 2, 3 bận không được.

Thôi thì mẹ gọi điện về VN, hỏi ba.

Mẹ mở speaker lớn lên. Ba mô tả cái chỗ có các CP (kêu bằng cái gì ai mà biết). Ba hướng dẫn: xem cái nút này thử coi, rồi làm như thế này, không được. Lại di chuyển qua cái khác…, Ty thực hiện tắt mở các cái CP, còn Bi test lại (tức Bi đứng ngay chỗ công tắc đèn để tắt-mở xem đã có điện lại chưa). Thử khoảng 3 lần thì điện có lại rùi! Hu-ra!

2 đứa đã tự làm homework xong xuôi.

2 chị em cũng đã tự lo ăn tối. Thực ra thì Bi đã ăn bún bò dưới nhà bà ngoại. Về nhà chị Hai cho ăn thêm cereal với sữa, còn Ty thì ăn cơm chiên mẹ để sẵn.

Nhìn thấy còn 3 còn tôm chiên cốm hồi sáng, thẩy luôn vô miệng nhai cho có cái gì trong bụng để uống thuốc nhức đầu.

Xong lùa 2 đứa nhỏ đi ngủ.

Ty, Bi còn kịp hỏi: mẹ đỡ nhức đầu chưa? - Có lẽ chắc mẹ bệnh rồi, nghe hơi thở thấy nóng!

Ty nói với Bi: “Bi ngủ với mẹ yên nha! Mẹ bệnh rồi đó” trước khi nói ‘good night, mẹ’ và trở về phòng.

Bi thì: mẹ ơi, con thương mẹ forever!

Ôi, con tui!

Monday, January 7, 2008

Entry for January 07, 2008 Những nhân vật đặc biệt của tôi!

Tối này tôi lại có một cái hẹn đến nói chuyện với vợ chồng bác Thụ và bác Sử. Chẳng là tôi đang thử làm một cuộc thăm dò xem người Việt Cali đón Tết ta như thế nào. Tôi thử chọn ra một số người mà tôi đã có dịp quan sát trước đây để rồi ‘make an appointment’ để tiếp cận họ. Mà thực cũng không dễ chút nào, bởi tôi với họ không phải là chỗ thân tình, tôi biết họ sơ sơ, và họ lại chẳng biết gì về tôi, hoặc cũng biết về tôi sơ sơ!

Nhưng điều quan trọng là họ chịu nói cho tôi nghe về họ…

* Thứ nhất là gia đình chị Hồng sang định cư được 5 năm

* Thứ hai là vợ chồng bác Thụ và bác Sử đã trải qua quá trình ‘học tập cải tạo 13 năm’ trước khi sang Mỹ 1990 theo diện H.O và chưa 1 lần có định trở về quê hương

* Thứ ba là gia đình của 1 anh chị sang Mỹ khoảng 3 năm, nhưng không phải từ Việt Nam mà từ Philippin. Họ đã ở đó ròng rã 16 năm để có thể đến với miền đất hứa này (nhờ sự can thiệp của LS Trịnh Hội)

* Người cuối cùng, đó là một bà bác bán lam lũ báo trước tiệm chè Cali, đến đây đã hơn 20 năm.

Mỗi nhân vật mà tôi chọn đều có những hoàn cảnh rất khác nhau. Và tôi đã học được rất nhiều điều khi tiếp xúc với họ, những điều hoàn toàn không có trong sách vở, trong những bài học, hay những trang giáo án trước đây của tôi.

Và để từ từ, tôi sẽ kể cho mọi người nghe về những nhân vật đặc biệt của tôi!

Entry for January 07, 2008 Người Việt Cali và Tết Nguyên Đán (I)

Nếu Sài Gòn đón Xuân bằng cái nắng rực rỡ đến chói chang thì Tết đến với người Việt Cali trong cái lạnh se sắc của những ngày giữa Đông. Nhưng dù ấm, dù nóng, dù lạnh, ở đâu người Việt cũng mở lòng ra để đón chờ một năm mới đến, dẫu vui dẫu buồn.

Thử nghe một số người bình dân nhất của khu Little Saigon nói về những cái Tết của họ trên đất Mỹ và ước nguyện khi Xuân về.

Chị Nguyễn Thị Hồng, 51 tuổi, sống ở thành phố Westminter, đang làm nail ở Santa Monica. Chị đến Mỹ vào năm 2002 cùng chồng và 6 người con - 2 trai, 4 gái theo diện đoàn tụ gia đình.

“Tui không hề có một chút ấn tượng gì về cái Tết Nguyên Đán đầu tiên trên đất Mỹ,” chị Hồng nói.

Tết đến khi chị đặt chân đến Mỹ vừa tròn 4 tháng. Ngỡ ngàng, chới với trên mảnh đất mà người ta gọi là ‘thiên đường’. Chị chỉ biết cùng chồng lao vào lo ổn định cuộc mưu sinh, làm sao để có thể kiếm tiền trang trải cho cuộc sống của một gia đình 8 người. Làm bánh mì, bán hàng food to go, làm hãng, rồi làm nail… Làm việc, làm việc và làm việc. Đó là phương châm sống của chị lúc đó. Cũng từ đây chị nhận ra 1 điều: trên vùng đất này, cần cù siêng năng làm việc đồng nghĩa với việc sẽ kiếm được tiền. Đây là điểm khác biệt với cuộc sống trước kia của chị ở Việt Nam: sáng vác cuốc ra đồng, chiều vác về, chị cũng đã phải làm không chút nề hà, không chút nghỉ ngơi, nhưng tiền cứ chảy vào túi ai kia, chứ không là của mình. Cuộc sống quá đỗi bấp bênh, không thấy đâu là tương lai ngày mai cho những người lao động chân tay như chị.

Còn nay, cuộc sống gia đình ngày 1 ổn định và đi lên.

Giờ đây sau hơn 5 năm ở Mỹ, chị cảm thấy cần phải cám ơn đất nước này đã cho chị và gia đình chị có những cơ hội đầu tiên để đi đến thành công. Chị có vẻ khá hài lòng với đứa con trai lớn đã bắt đầu đi làm để có thể tự nuôi sống bản thân, 3 người con kế tiếp đang học UCLA và OCC, 2 cô gái nhỏ học high school.

Nhìn lại quãng thời gian định cư chưa lâu trên vùng đất này, chị tâm sự:

“Mỹ có là thiên đường hay không là do ở mỗi người. Mỹ luôn cho người ta những cơ hội và mình hãy biết nắm bắt những cơ hội đó làm thành những nấc thang bước đến mục đích. Tôi cảm thấy tiếc cho những người đã không biết tận dụng cơ hội này, nhất là những người trẻ, thật là uổng phí.”

Cũng như nhiều gia đình Á Đông khác, giềng mối gia đình vẫn luôn là mối quan tâm hàng đầu của chị. Cho dù có cực lực làm việc kiếm tiền đến đâu đi nữa, từ ngày sang Mỹ đến nay chị và gia đình vẫn duy trì được thói quen đọc kinh Phúc Âm mỗi tối. Nhưng điều quan trọng là vợ chồng chị cùng các con đọc bằng ‘lòng mến lòng sốt sắng’ chứ không phải như một sự ép buộc. Và phải chăng lòng hướng đến Chúa cũng chính là sợi dây thít chặt hơn tình cảm của mọi người trong gia đình lại với nhau, biết chia sẻ và quan tâm đến nhau hơn.

Dù còn hơn 3 tuần nữa mới đến giờ khắc chuyển giao của năm cũ và mới, nhưng ngay lúc này chị Hồng đã đầy đủ những dự tính sẽ lì xì cho những ai, đi tết những nơi nào, họp mặt chúc tết ra sao. Điều đó có nghĩa là chị đang đón chờ một năm mới đến trong niềm vui viên mãn.

“Không mong sẽ kiếm được thật nhiều tiền, chỉ mong sao cho có đầy đủ sức khỏe, cho bản thân, cho gia đình, vợ chồng đồng lòng hạnh phúc và con cái ngoan ngoãn,” chính là nguyện ước của chị Hồng cho năm mới sắp tới.



(Còn tiếp)

Saturday, January 5, 2008

Entry for January 05, 2008 Văn chương và đời thường

Tôi nhớ trước đây khi dạy về bài “Giá trị của tác phẩm văn chương’, tôi có lấy những ví dụ về truyện “Cô bé bán diêm”, tôi cho rằng ai cũng thật sự xúc động khi đọc đến đoạn kết của câu chuyện. Và sẽ không ít người đọc nghĩ rằng, nếu mình trông thấy tình cảnh ấy ắt hẳn mình đã làm 1 điều gì đó cho cô bé.

Tôi lại lấy ví dụ, không ít người trong chúng ta khi bước chân vào 1 quán ăn, quán cafê, chúng ta cảm thấy rất khó chịu khi có những người đàn bà bán vé số, những cậu bé bán báo, những cô bé dẫn theo người đàn ông mù lòa ngửa nón…. đến mời mua, hay đến xin tiền. Chúng ta thường thản nhiên lắc đầu, không buồn nhìn xem họ là ai, thậm chí có người còn bực dọc: “Không mua đâu. Đi đi…”

Đến chiều khi về đến nhà, chúng ta tình cờ đọc 1 bài báo, trong đó kể về hoàn cảnh rất đáng thương của 1 cậu bé: mẹ bệnh nặng, cha mất sớm, 9-10 tuổi đầu là anh cả, em đã phải gánh trách niệm của cả mẹ lẫn cha, 1 buổi đến trường, 1 buổi lo tìm cái ăn cho mẹ cho em, em chỉ có mỗi ước mơ duy nhất: mong mỗi ngày trời đừng mưa để em có thể bán hết xấp vé số trên tay, để mẹ không phải lên cơn nhức nhối bởi sự thay đổi của tiết trời…

Đọc đến đó, mỗi người chúng ta lại cũng trỗi dậy lòng nhân: nếu có gặp, mình sẽ mua dùm em vài tờ vé số. Nhưng chúng ta đâu ngờ rằng, cậu bé đó chính là người mà ta đã tỏ vẻ bực bội xua đuổi sáng nay…

Những ví dụ đơn giản như thế để thấy rằng: văn chương có tác động lớn như thế nào đối với mỗi chúng ta.

Nhưng tôi lại nghĩ: làm sao để có thể biến những tình cảm mà mình có khi đọc từ truyện, từ sách, từ báo trở thành 1 tình cảm, 1 hành động hiển nhiên trong đời thường?

Hôm nay tôi đọc bài “Lênh đênh những mảnh đời Việt Kiều Tonle Sap” của tác giả Vũ Quí Hạo Nhiên, trong đó có đoạn:

- Charlie Nguyễn, đạo diễn phim Dòng Máu Anh Hùng, kể lại kinh nghiệm của anh khi tới viếng ngôi làng nổi cùng với một nhóm người Mỹ gốc Việt. Anh nói:

“ Có những đứa trẻ đến xin tiền tụi tui. Tụi nó nhỏ lắm… và chúng bám vào bên sườn chiếc tàu máy của chúng tôi để xin tiền… chúng van nài tụi tôi để xin một ngàn riel, tức chỉ khoảng 25 cents Mỹ.

…Lúc đó tàu nổ máy trở về Phnom Penh, nhưng lũ trẻ vẫn cứ bám vào, trong khi chiếc thuyền càng lúc càng rời xa ngôi làng nổi… Cuối cùng tụi tôi đành phải đưa tiền cho tụi nhỏ. Chúng cám ơn, nhét tiền vào quần cụt, rồi nhảy xuống nước”…

Phải gian nan như vậy để xin được một số tiền tương đương với 25 cents. Nhưng điều đó có nghĩa là đứa trẻ sẽ được tới trường năm ngày để học tiếng Việt, và có ai biết được chúng còn cần thêm bao nhiêu nữa để có đồ ăn, có áo mặc, hoặc để sửa chữa cái mái che trên đầu chúng.

Đọc đến những dòng cuối cùng tự dưng tôi thấy lòng buồn vô hạn. 25 cents có nghĩa lí gì đâu trong cuộc sống hằng ngày của tôi, và những người quanh tôi. Giá mà tôi có thể đặt cả một nắm những đồng 25 cents vào tay những đứa trẻ nhỏ, ‘nhỏ lắm’ kia trước khi tàu nổ máy, để chúng không phải ‘gian nan’ như vậy, và biết đâu chúng có được một niềm vui bất chợt trong một ngày ‘trúng mánh’…Và chính tôi cũng sẽ cảm thấy vui vì điều đó. Nên lắm chứ!

Nghĩ là như vậy, nhưng tôi biết, trong cuộc sống, tôi vẫn cứ như bao người, vô tình, lơ đễnh bước qua những nghiệt ngã, những nhọc nhằn, những đắng cay của người khác. Để rồi bất chợt một chốc nào đó bỗng miên man một chút gì như ân hận, như tiếc nuối: giá như…